• Thông tin tư liệu > Sách hay nên đọc

TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA THEODOR W.ADORNO QUA LÝ THUYẾT MỸ HỌC

Câu hỏi quan trọng nhất của mỹ học cũng đồng thời là câu hỏi khó trả lời nhất, đó là: nghệ thuật là gì? Rất nhiều học giả đưa ra quan điểm nhưng cũng không thể định nghĩa được. Chúng ta sử dụng thuật ngữ này hàng ngày, đặc biệt dùng để tranh luận về mối quan hệ giữa mỹ học và đạo đức. Trong luận điểm về cặp đôi tính chất của nghệ thuật, Adorno đề cập đến vấn đề này. Đặc biệt, mối quan hệ giữa nghệ thuật và xã hội đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc mỹ học của Adorno nói riêng, trường phái lý thuyết phê phán nói chung. Bài viết nhằm phân tích phê phán quan điểm của Theodor W. Adorno thông qua cách tư duy của ông trong tác phẩm Lý thuyết mỹ học.

QUAN NIỆM TRUNG, HIẾU CỦA PHAN BỘI CHÂU TRONG KHỔNG HỌC ĐĂNG

Trung và hiếu là hai phẩm chất đạo đức quan trọng, ai cũng cần có và nên cố gắng thực hiện. Hai phạm trù này chiếm vị trí trọng tâm trong học thuyết Nho giáo qua các đại diện tiêu biểu là Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử. Tuy nhiên, trong quan niệm của Tống Nho, tư tưởng về trung, hiếu đã bị thần bí hóa, tuyệt đối hóa, làm cho nội dung tư tưởng trung, hiếu ngày càng cứng nhắc, khác xa so với tôn chỉ của Nho giáo Khổng Mạnh. Chính tính phức tạp này dẫn đến tình trạng khi vào Việt Nam, tư tưởng trung, hiếu của Nho giáo đã tạo ra tác động trái chiều đến các nho sĩ Việt Nam. Bên cạnh những nho sĩ tiếp thu một cách thụ động tư tưởng trung, hiếu của Nho giáo, rất nhiều các nho sĩ để tâm vào việc mở rộng nội dung phạm trù này cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu là một trong những nhà nho chân chính đó.

GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG

Vi Hồng, nhà văn tiêu biểu của văn học dân tộc Tày. Vi Hồng đã viết nhiều về đề tài miền núi, đặc biệt về dân tộc Tày, viết cho người Tày mình đọc, đồng thời các dân tộc khác hiểu về người Tày hơn. Tiểu thuyết Vi Hồng là một bức tranh khái quát về cuộc sống, con người miền núi. Ông gửi gắm tình yêu sâu sắc vào những trang văn về phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa, suy nghĩ, tình cảm của người dân Việt Bắc qua giọng điệu trần thuật độc đáo.

KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NHÀ VĂN NỮ HẢI NGOẠI

Trong tác phẩm văn học, không gian nghệ thuật được xem là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, khiến tác phẩm tồn tại như một chỉnh thể. Không gian nghệ thuật thể hiện trường nhìn, chiều sâu cảm thụ cũng như quan niệm nghệ thuật của người nghệ sĩ. Trong tiểu thuyết của các nhà văn nữ hải ngoại, không gian nghệ thuật không chỉ phản ánh cái nhìn mang đậm chiều sâu nội cảm của các nhà văn nữ mà còn thấm đẫm những trải nghiệm thấm thía từ cuộc đời xa xứ của các tác giả. Bởi thế, trong những sáng tác ấy, không gian nghệ thuật hiện lên với những nét độc đáo, riêng biệt thông qua hai đặc tính nổi bật: tính phân hóa, khu biệt và tính cá thể hóa, tâm linh hóa trong không gian nghệ thuật. Với hai đặc tính này, không gian trong tiểu thuyết đã mở ra trường hoạt động của các nhân vật, tô đậm cho cuộc đời của những thân phận người Việt ở nước ngoài.

THẾ GIỚI QUAN CỦA KWABATA NHÌN TỪ CẢM THỨC VÔ THƯỜNG TRONG NGÀN CÁNH HẠC

Phật giáo du nhập vào Nhật Bản từ TK VI, ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống, văn hóa Nhật Bản. Hấp thu những thành tựu của tôn giáo, tín ngưỡng bản địa được hun đúc trong văn hóa, văn học truyền thống, nhà văn Yasunari Kawabata đã sáng tạo nên những tác phẩm mang đậm sắc màu tôn giáo huyền bí. Tác giả thể hiện thế giới quan một cách sâu sắc, thăng hoa trong cảm quan vô thường mà Ngàn cánh hạc là một trường hợp tiêu biểu. Cảm quan vô thường được thể hiện qua lăng kính của nhà văn về thời gian cuộc đời, số phận phù du, sức mạnh của cái đẹp. Từ đó, nội dung tác phẩm, tư tưởng của nhà văn được sáng tỏ qua thế giới quan vô thường.

NHỮNG BÀI THƠ ĐƯỢC VIẾT BẰNG VĂN XUÔI

Tản văn du ký là một thể loại văn chương mới, mang lại cảm hứng cho nhiều tác giả trẻ. Đây là những câu chuyện nhỏ được ghi chép lại sau mỗi chuyến hành trình của tác giả đến vùng đất mới. Trong số những tác phẩm viết về vùng đất phương Nam nắng gió thì Đi đâu cũng nhớ Sài Gòn và... Em của Anh Khang lại mang đậm tinh thần hiện đại, nhưng vẫn đầy chất lãng mạn. Người đọc tìm thấy ở những câu chuyện nhỏ ấy tình yêu quê hương, đất nước, con người sau những chuyến đi, để thấy rằng tim mỗi người là quê nhà nhỏ, là nơi để trở về.

ĐỌC LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM

Nếu coi Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh như cột mốc mở đầu của việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam một cách khoa học, có hệ thống thì đến nay, nghiên cứu văn hóa Việt Nam đã đi được một chặng đường ngót 100 năm. Trên thực tế, phải đến những năm 90 của TK XX, cao trào nghiên cứu văn hóa, lịch sử văn hóa mới xuất hiện, phải kể đến các giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm (1997), Trần Quốc Vượng chủ biên (1997), Chu Xuân Diên (1999), gần hơn nữa là Lịch sử văn hóa Việt Nam của Huỳnh Công Bá (2008). Hơn nữa, những công trình lịch sử văn hóa thuộc các lĩnh vực như mỹ thuật, kiến trúc, âm nhạc, văn học… cũng đã tích lũy được một khối lượng tri thức khoa học hệ thống, tạo điều kiện để có thể bắt tay vào biên soạn những bộ lịch sử văn hóa chuyên biệt.

CUỘC SỐNG THÔN QUÊ TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI

Vẻ đẹp thôn quê là đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc, ngay cả khi đất nước bị xâm lăng thì những yếu tố ngoại lai cũng không thể thay thế được những nét đẹp đã tồn tại hàng ngàn năm trước đó. Đây là thời kỳ mà những “yếu tố dung dị thay thế yếu tố xa hoa” (1). Chính vì vậy, các nhà nho Việt Nam luôn dành những cảm xúc sâu lắng về cuộc sống làng quê thôn dã. Trước Nguyễn Trãi, các thi sĩ thời Trần cũng đã có những vần thơ mộc mạc, giản dị miêu tả bức tranh phong cảnh nơi thôn quê như: Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông, Quy hứng của Nguyễn Trung Ngạn, Giang thôn tức sự của Trần Quang Triều... Dòng mạch cảm xúc đó được phát triển trong sáng tác của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Đặng Huy Trứ..., trong đó, Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tập thơ quốc âm đầu tiên đã khắc họa bức tranh thôn dã với vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, gần gũi và quen thuộc.