• Văn hóa > Đương đại

YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VÙNG ĐÔNG BẮC VIỆT NAM

Văn hóa dân tộc vùng Đông Bắc là một nền văn hóa có bản sắc, giàu truyền thống đang cần được bảo tồn và phát triển để thực sự trở thành biểu trưng cho nét đẹp tinh thần của cộng đồng các dân tộc, đây cũng là cơ sở để phát huy hơn nữa vai trò là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội vùng Đông Bắc Việt Nam hiện nay. Việc tìm hiểu về các yếu tố tác động đến sự vận động phát triển văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc, trên cơ sở đó đề xuất khuyến nghị để văn hóa vùng này luôn giữ được bản sắc trong dòng chảy của thời đại là công việc có giá trị lý luận và thực tiễn.

TƯ DUY TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Tư duy là một thuộc tính cố hữu của con người, là một trong những tiêu chí để đánh giá năng lực hoạt động nhận thức và thực tiễn của các chủ thể. Tuy nhiên, tư duy không phải là cái có sẵn, mà là sản phẩm của sự kết hợp nhiều yếu tố trong quá trình hình thành, phát triển của con người, qua sự tác động trực tiếp, gián tiếp từ môi trường và điều kiện sống của chính họ… Với tư cách là hoạt động tâm lý người ở cấp độ ý thức, sự phản ánh của tư duy đối với tồn tại xã hội là sự phản ánh đặc thù, bởi một mặt thể hiện tính năng động của ý thức, mặt khác, thể hiện sự bảo thủ trì trệ của những thói quen, phong tục tập quán truyền thống. Do vậy, tư duy có thể thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của xã hội nói chung.

ĐỔI MỚI ĐÀO TẠO NGÀNH QUẢN LÝ VĂN HÓA

Nhằm phân tích nhu cầu đổi mới đào tạo ngành quản lý văn hóa (QLVH) ở nước ta hiện nay, tác giả mong muốn đưa ra các giải pháp về đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, đánh giá kết quả đào tạo. Bài viết cũng đề cập đến một số điều kiện để thực hiện đổi mới đào tạo ngành QLVH.

LỄ HỘI HÁT CỬA ĐÌNH CỦA NGƯỜI KINH Ở QUẢNG TÂY, TRUNG QUỐC

Mỗi dân tộc đều có một ngày lễ tết quan trọng, như tết mùng 3 tháng 3 của người Choang, tết Bàn vương của người Dao, trong khi đó ngày tết quan trọng của người Kinh ở Trung Quốc chính là lễ hội hát cửa đình. Lễ hội hát cửa đình thể hiện và truyền đạt, văn hóa của người Kinh, có tác dụng quan trọng trong việc bảo tồn văn hóa. “Ha đình” trong tiếng của người Kinh có thể dịch là “hát đình” hoặc “ca đình”. “Lễ hội hát cửa đình” cũng có thể dịch là “tết ca hát”. Để xem xét sự thay đổi và phát triển của lễ hội hát cửa đình, một tập hợp các hoạt động tế lễ và giải trí truyền thống, của người Kinh, chúng ta phải bắt đầu tìm hiểu từ nguồn gốc của nó.

KHÔNG GIAN SỐNG VÀ TẬP QUÁN SẢN XUẤT CỦA NGƯỜI XỨ ĐOÀI

Xứ Đoài là một không gian văn hóa đặc trưng của đồng bằng châu thổ sông Hồng. Trong không gian đó, quá trình con người khai phá đồng đất, tụ cư, định cư, tổ chức sinh hoạt đã được ghi lại bằng ngôn ngữ. Địa danh là một trong những sản phẩm ngôn ngữ cụ thể, phản ánh trực tiếp những dấu ấn này. Trên cơ sở các lớp địa danh khác nhau, chúng tôi miêu tả một không gian sống đặc thù của xứ Đoài, vừa sở hữu những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất, vừa phải đối mặt với những khó khăn. Ở những nơi có điều kiện thuận lợi, người xứ Đoài tìm cách phát huy. Ở những nơi còn khó khăn, người xứ Đoài biến các sản phẩm lương thực thực phẩm không phổ biến thành phổ biến, biến môi trường thiên nhiên hoang sơ thành những nơi đáng ao ước để nghỉ ngơi, trải nghiệm.

HƯỚNG TIẾP CẬN ĐỐI CHIẾU NGỮ NGHĨA TỪ VỰNG VĂN HÓA THÔNG QUA TỪ KHÓA

Nhà ngôn ngữ học Anna Wierzbicka đã từng khẳng định nghĩa của từ cung cấp bằng chứng rõ nét nhất về thực tế văn hóa, giống như cách nói, cách nghĩ và cách sống của dân tộc đó. Trong xu thế mở rộng giao lưu, hợp tác, khu vực hóa, quốc tế hóa và hội nhập, cùng với xu thế nghiên cứu kết hợp ngôn ngữ và văn hóa thì việc phân tích đối chiếu ngữ nghĩa của nhiều ngôn ngữ càng trở thành một nhu cầu cấp thiết. Với xu hướng nghiên cứu liên ngữ xuyên văn hóa, thông qua việc phân tích đối chiếu dung lượng nghĩa của một số nhóm từ khóa (key word), sẽ làm sáng rõ những thành tố văn hóa, những nét đặc trưng của từng quốc gia.

SO SÁNH XUYÊN VĂN HÓA VỀ HÀNH VI ỦNG HỘ XÃ HỘI

Vì sao chúng ta giúp đỡ người khác và điều gì thúc đẩy chúng ta hành động như vậy? Những người dân ở mọi nền văn hóa có hành xử như nhau hay không? Việc thực hiện các hành vi ủng hộ xã hội là mang tính phổ quát ở mọi quốc gia, vùng miền, nền văn hóa hay mang tính đặc trưng, khác biệt? So sánh xuyên văn hóa (1) về hành vi ủng hộ xã hội là việc xem xét sự tương đồng và khác biệt trong việc thực hiện các hành vi ủng hộ xã hội dưới góc độ ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa.

ĐẶC ĐIỂM MIỀN NÚI VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ

Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới ở miền núi (miền núi các tỉnh phía Bắc và Tây Nguyên) gặp nhiều khó khăn. Một số tiêu chí xây dựng nông thôn mới không phù hợp dẫn đến tình trạng không thực hiện được tiêu chí hoặc thực hiện được nhưng lại bỏ hoang các công trình văn hóa. Bài viết này tập trung phân tích đặc điểm miền núi ảnh hưởng đến vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn. Trong đó, chú trọng phân tích tính đặc thù của miền núi chi phối đến vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở gắn với việc xây dựng nông thôn mới.

ẨM THỰC MNÔNG PREH Ở ĐẮC NÔNG

Văn hóa ẩm thực luôn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống cộng đồng Mnông Preh. Ẩm thực không chỉ là ăn uống hàng ngày mà càng được chú trọng hơn trong các dịp lễ hội, nghi thức, phong tục… của cộng đồng, xã hội. Sự biến đổi nhanh chóng của đời sống xã hội đã kéo theo sự thay đổi văn hóa ẩm thực, trở thành vấn đề nhạy cảm trong điều kiện bảo tồn và phát triển.

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ Ở HOẰNG HÓA, THANH HÓA

Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là xây dựng những điều kiện để tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh trong thời gian rỗi của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghệ thuật, tạo dựng một lối sống văn minh, lịch sự, những phong tục, tập quán tốt đẹp, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa phù hợp với trào lưu văn hóa tiến bộ của nhân loại. Đồng thời, cũng là xây dựng mạng lưới thiết chế văn hóa, tạo nên một cảnh quan văn hóa ở nông thôn, cảnh quan ấy mang đặc trưng kiến trúc của thời đại mới, vừa truyền thống, vừa hiện đại, góp phần xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế chung của đất nước và mỗi địa phương.

VỀ TÊN GỌI CÁC NHÓM THÁI Ở THANH HÓA VÀ TÂY BẮC

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2009, người Thái ở Thanh Hóa có 225.336 người, đứng thứ ba về các địa phương có đông người Thái ở Việt Nam, địa bàn cư trú tập trung ở khu vực miền núi, thuộc các huyện Thường Xuân, Bá Thước, Quan Sơn, Quan Hóa, Như Xuân, Lang Chánh, Mường Lát, Như Thanh. Người Thái ở đây chủ yếu mang những đặc trưng văn hóa chung của dân tộc Thái. Song những điều kiện tự nhiên, lịch sử không hoàn toàn giống với vùng Tây Bắc, trong đó có những điều kiện rất đặc thù, tác động trong suốt quá trình phát triển của lịch sử, đã tạo nên trong văn hóa truyền thống có cả những điểm tương đồng, khác biệt. Do vậy, người Thái ở Thanh Hóa hình thành một nhóm địa phương, không đồng nhất với người Thái ở Tây Bắc về một số biểu hiện văn hóa, phân thành các nhóm nhỏ có các tên gọi khác nhau với một số đặc điểm văn hóa cũng không giống nhau.

VĂN HÓA ẨM THỰC CỦA NGƯỜI TÀY Ở TUYÊN QUANG

Tuyên Quang là một tỉnh miền núi nằm ở phía Đông Bắc nước ta, có nhiều tộc người thiểu số sinh sống. Trong đó, Tày là dân tộc có số dân cư đông, cư trú rải rác khắp các địa bàn trên toàn tỉnh và còn giữ nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc (1). Tại đây, văn hóa của người Tày có sức ảnh hưởng rất lớn tới cộng đồng các dân tộc anh em như Dao, Mông, Nùng, Cao Lan... Nổi bật nhất là ẩm thực với những đặc trưng riêng biệt về văn hóa thưởng thức, văn hóa ứng xử... tạo nên sức hấp dẫn riêng của vùng.