• Văn hóa > Đương đại

VĂN HÓA SINH THÁI RỪNG CỦA CƯ DÂN ĐẢO PHÚ QUỐC

Mối liên hệ giữa môi trường, con người, văn hóa là chủ đề nghiên cứu cốt lõi của ngành nhân học sinh thái trên thế giới. Đặt trong quan điểm tiếp cận mới, bài viết minh chứng sự tồn tại của văn hóa sinh thái rừng bên cạnh văn hóa sinh thái biển thông qua việc xem xét sự hiện diện của các thành tố: tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội, phong tục cổ truyền, tri thức bản địa… của cư dân sinh sống trên đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

NGHỀ CƠ KHÍ VÀ MỘC DÂN DỤNG VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI LÀNG XÃ

Trong các dạng chuyển đổi phương thức mưu sinh của các cộng đồng cư dân bị mất đất sản xuất, có hiện tượng du nhập nghề mới và phát triển thành các khu sản xuất tập trung, hình thành các công ty, doanh nghiệp với đội ngũ các giám đốc; đã tác động rất lớn đến kết cấu kinh tế, đời sống xã hội của các làng, đang đặt ta nhiều vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu. Theo quy luật thông thường, sự thay đổi về kinh tế ắt kéo theo những thay đổi về mặt xã hội. Việc du nhập nghề cơ khí và mộc dân dụng tạo ra những thay đổi lớn về kinh tế cho làng Đại Tự xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội dẫn đến những thay đổi về xã hội.

QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC CÁC TỔ CHỨC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN HIỆN NAY

Chủ trương xã hội hóa các đơn vị nghệ thuật đã được Bộ VHTTDL đặt ra từ khá lâu, với kỳ vọng mở ra nhiều cơ hội để hoạt động nghệ thuật phát triển trong giai đoạn hội nhập. Đến nay, con đường này đã đi được nửa, tuy nhiên theo các tổ chức nghệ thuật biểu diễn, quá trình tự chủ vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc cần được giải quyết.

TRI THỨC CỦA NGƯỜI CHỨT TRONG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN RỪNG

Trong quá trình lao động, dân tộc Chứt ở khu vực biên giới Việt - Lào, nằm trên địa bàn hai tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm, đạt được những thành quả ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong thế ứng xử văn hóa với môi trường tự nhiên. Người Chứt luôn vượt qua khó khăn, linh hoạt, có khả năng thích ứng văn hóa. Tùy theo điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, dân tộc Chứt đã tích lũy được một kho tàng rất phong phú về tri thức dân gian trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên rừng. Đối với các cư dân miền núi, rừng có đóng góp to lớn đối với sinh kế, phúc lợi của họ như tạo thu nhập, công ăn, việc làm, cung cấp lương thực thiết yếu, giảm nhẹ những thiệt hại khi mùa màng thất bát.

BIẾN ĐỔI HÌNH THỨC ĐÁNH BẮT HẢI SẢN CỦA NGƯ DÂN XÃ ĐẢO NGHI SƠN

Nghi Sơn là xã nằm toàn bộ trên hòn đảo phía Đông Nam huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Người dân nơi đây có truyền thống đi biển lâu đời, với các hình thức đánh bắt đa dạng. Nó không chỉ là phương thức mưu sinh mà còn chứa đựng các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng ngư dân đối với các hoạt động tổ chức đánh bắt, phân chia, tiêu thụ sản phẩm. Theo thời gian, các hình thức truyền thống mang nặng tính thủ công, có hiệu quả đánh bắt không cao dần dần được thay thế bằng các hình thức đánh bắt mới, vươn khơi với năng suất cao, nhân công lao động ít như câu vàng, mành chụp...

VẤN ĐỀ SINH KẾ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở CẨM LƯƠNG

Người Mường ở Thanh Hóa hiện có khoảng 306.867 người, cư trú chủ yếu tại 11 huyện miền núi; trong đó huyện Cẩm Thủy chiếm số lượng khá lớn. Người Mường Thanh Hóa có 2 nhóm chính: Mường trong, Mường ngoài. Người Mường ở xã Cẩm Lương là nhóm Mường trong. Dù cho thuộc nhóm nào thì tộc người Mường đều có đời sống vật chất, văn hóa khá phong phú. Phương thức mưu sinh không tách rời 2 nhân tố văn hóa, sinh kế. Con người cần sống với nhau cũng như cần tài nguyên của môi trường đề sinh tồn, tuy vậy không có mô hình tổ chức xã hội cố định cho tất cả mọi xã hội. Với môi trường sống nhất định, bằng tài nguyên, nguồn nhân lực, con người đã sáng tạo ra những phương thức mưu sinh thích ứng để tồn tại, phát triển. Cách con người sử dụng nguồn tài nguyên là do văn hóa quy định.

XÂY DỰNG GIA ĐÌNH, THÔN, BUÔN VĂN HÓA Ở ĐẮC LẮC

Quy ước nếp sống văn hóa, làng (thôn, ấp, bản) văn hóa thực chất là những thỏa thuận của cộng đồng có nguồn gốc từ việc kế thừa truyền thống lập hương ước của cha ông để nhân dân tự giác tuân thủ, nhằm xây dựng cuộc sống ổn định, phát triển cả về vật chất lẫn tinh thần. Quy ước có nội dung tiến bộ, được triển khai thực hiện tốt sẽ có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm, nâng cao nhận thức của mỗi người dân, xây dựng nếp sống văn hóa, hình thành những phong tục tập quán mới tốt đẹp, tác động đến phong trào xây dựng gia đình, làng văn hóa. Tỉnh Đắc Lắc đã vận dụng luật tục của người Ê đê, M’nông vào xây dựng gia đình, thôn, buôn văn hóa nhằm thiết thực góp phần vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên môi trường, giữ gìn an ninh trật tự, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

BẢO TỒN, PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC VÙNG TÂY BẮC

Văn hóa không chỉ là đặc trưng của dân tộc mà còn là mục tiêu và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập, phát triển kinh tế cũng nảy sinh những tác động mang tính khách quan đến việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Bài viết đề cập đến một số đặc điểm văn hóa, những ảnh hưởng của quá trình phát triển kinh tế đến văn hóa các dân tộc vùng Việt Bắc, từ đó nêu lên phương hướng và giải pháp liên quan đến vấn đề này…

TRÒ HÁT THỜ LÀNG MƯNG

Làng Mưng, là một ngôi làng cổ, có tên chữ là Côn Minh, thuộc xã Thanh Nê, tổng Cổ Định, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, nay là thôn Mưng, xã Trung Thành, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Trong lễ hội truyền thống làng Mưng (1), nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian đặc sắc được bảo tồn như tục đua thuyền thờ, đánh cá thờ, những làn điệu dân ca, trò diễn dân gian…, đặc biệt là 4 trò diễn dùng để tế thánh Lưỡng, dân trong vùng gọi là trò hát thờ. Trò hát thờ làng Mưng chứa đựng tính nguyên sơ, được cấu tạo từ 2 nhân tố cơ bản: tích và trò. Nó còn có tên gọi khác là chèo thờ, bởi có nhiều điểm tương đồng với nghệ thuật chèo truyền thống.

NGHỊCH LÝ TỰ DO CÁ NHÂN TRONG LÒNG THIẾT CHẾ CHUYÊN CHẾ

Bài viết không tìm hiểu điểm vênh giữa sự ra đời của tự do cá nhân trong lòng thiết chế chuyên chế mà trọng tâm tìm kiếm mắt xích kết nối nghịch lý này. Mắt xích chính là nét độc đáo, cũng là điểm chưa rõ để hiểu và trả lời cho nghịch lý tại sao tự do cá nhân vốn không thể xuất hiện, phát triển trong lòng chế độ chuyên chế lại có thể xuất hiện cùng với tiến trình kiện toàn đại thiết chế chuyên chế ở Việt Nam thời nhà Nguyễn. Nói cách khác, tại sao cỗ máy đại thiết chế chuyên chế nhà Nguyễn đã vô tình để sổng chuồng hay hữu ý thả rông cho một trường hợp độc nhất vô nhị này. Lôgic nội tại của sự xuất hiện tự do cá nhân ở Nguyễn Công Trứ là gì và đặc biệt lý giải cơ chế cho phép sự tồn tại song song của hai định hướng trái chiều này qua một trường hợp đặc biệt như vậy.