• Nghệ thuật > Âm nhạc và múa

TÍNH DỊ BẢN TRONG LÝ CON SÁO NAM BỘ

Lý con sáo Nam Bộ là một trong những thể điệu độc đáo của lý, gần gũi với đời sống sinh hoạt tinh thần của cộng đồng người dân Nam Bộ. Không riêng Lý con sáo, mà các điệu lý trên khắp mọi miền đất nước đều do quần chúng nhân dân sáng tạo, giữ gìn, phát triển. Trong đó, tính dị bản của các điệu lý cũng phát sinh từ dân gian, là sự đổi mới một số thành tố, có loại trừ, chọn lọc, vun bồi để chỉnh thể ngày càng phong phú cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.

ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC NGÀNH ÂM NHẠC, CÁI NHÌN HÌNH VÒNG XUYẾN

Trong khoảng hơn chục năm trở lại đây, đào tạo sau đại học đang là vấn đề mang tính thời sự đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam. Một bức tranh nhiều sắc màu đậm nhạt khác nhau, tạo cho người trong, ngoài cuộc có những cung bậc tình cảm vui buồn lẫn lộn thật khó diễn tả. Nếu trên phương diện lý thuyết, vui vì ngày càng có nhiều nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước; còn thực tế lại buồn, bởi chất lượng nguồn nhân lực do một số cơ sở đào tạo ra không đáp ứng được kỳ vọng của xã hội. Tình trạng này là do hệ quả mang tính dây chuyền, nó không có biên giới riêng cho một cơ sở nào trong việc đào tạo sau đại học ngành âm nhạc.

ÂM NHẠC CỦA HÁT TRỐNG QUÂN Ở TRUNG DU BẮC BỘ

Hát trống quân là một loại hình diễn xướng dân gian khá phổ biến trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người Việt ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Đây là lối hát nam nữ đối đáp giao duyên với những đặc trưng độc đáo, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa đặc sắc của người Việt. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy lối hát trống quân ở một số địa phương thuộc trung du Bắc Bộ có những yếu tố riêng biệt, trong đó, âm nhạc, lối hát mang tính nguyên sơ, thể hiện sự xuất hiện lâu đời của loại hình âm nhạc này.

ÂM CHUẨN, TIẾT TẤU TRONG TRÌNH DIỄN TÁC PHẨM VIOLON

Trong trình diễn tác phẩm âm nhạc, âm chuẩn, tiết tấu là yếu tố thể hiện đầy đủ nhất âm hưởng của tác phẩm cũng như thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm. Việc xác định mối tương quan về cao độ giữa bậc âm, sắp xếp chúng theo những quy tắc đã dẫn đến việc ra đời các hệ thống thang âm, điệu thức. Các mối tương quan, hệ thống âm thanh ấy là hạt nhân cốt lõi, là yếu tố quan trọng quyết định đến diễn trình âm nhạc. Việc xác định âm chuẩn, tiết tấu trong trình diễn violon góp phần không nhỏ vào quá trình nghiên cứu âm nhạc, nâng cao chất lượng đào tạo nghệ sĩ violon ở nước ta.

TÍNH TẨU TRONG VĂN HÓA TÀY Ở TUYÊN QUANG

Tính tẩu, cây đàn được sử dụng trong nghi lễ then của người Tày, còn có nhiều tên gọi khác nhau như: đàn tính, tàn tính, ăn tính, đàn then, tính then... Trong quá trình hội nhập văn hóa, nghi lễ then đã có nhiều biến đổi, nhiều nghi thức, thủ tục hành lễ dẫn bị lược bỏ. Tuy nhiên, tính tẩu vẫn luôn là vật dụng không thể thiếu trong nghi lễ, người Tày coi đây là nhạc cụ lưu trữ giá trị văn hóa của cộng đồng, mang ý nghĩa đặc biệt về mặt tâm linh.

TƯƠNG QUAN GIỮA MÚA HIỆN ĐẠI VÀ MÚA TUỒNG

Như một hình thức biểu đạt mới, đó là múa hiện đại, của nghệ thuật múa, múa hiện đại nhanh chóng lan tỏa với sự kết hợp ngôn ngữ mạnh mẽ, nhiều trường phái đa phong cách khác nhau, mang dấu ấn văn hóa dân tộc: múa hiện đại phương Tây kết hợp với sự hư ảo của truyền thống Trung Hoa do Lin Hwaimin thể nghiệm tại Đài Loan, múa cổ điển Ấn Độ được Chandralekha thực hiện tại Madras hay múa cổ truyền của thổ dân Úc với những chủ đề đương đại của đoàn múa thổ dân Bangara ở Sydney. Múa hiện đại, với bốn trường phái nền tảng cùng các xu hướng đặc trưng là chìa khóa giải mã cho những tác phẩm múa đương đại hình thành nhiều phong cách khác nhau. Ở Việt Nam, tuy chưa xác định thành phong cách cụ thể nhưng đã manh nha hình thành một số dạng thức kết hợp đặc trưng của múa hiện đại với múa dân tộc và các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống. Đặc biệt, múa hiện đại và múa tuồng có nhiều mối tương quan lẫn nhau.

TIÊU VIỆT, MỘT CHẶNG ĐƯỜNG

Bước vào thời kỳ khoa học công nghệ phát triển, văn hóa giữa các nước không còn là một khoảng cách quá lớn, sự tiếp xúc, giao lưu đã góp phần nâng cao vị thế của văn hóa, trong đó có nhu cầu thẩm mỹ nghệ thuật. Trong quá trình hội nhập, âm nhạc truyền thống đã có nhiều sự biến đổi đáng kể từ tác phẩm, kỹ thuật biểu diễn, kỹ thuật phối khí… Những công trình cải tiến nhạc cụ ra đời, đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vần đề liên quan đến thẩm mỹ nghệ thuật. Tiêu biểu như công trình cải tiến đàn tranh của nhạc sư Vĩnh Bảo về mở rộng âm vực, giảm độ cong của mặt đàn để thuận tiện khi trình diễn các âm cao, độ vang…; đàn tam thập lục được nghệ sĩ Hồ Nga chế thêm pedal ngắt tiếng; sáo trúc thay đổi từ 6 sang 10 lỗ…

CÁC VŨ CÔNG HÓA ĐÁ TRONG ĐIÊU KHẮC CHĂM QUA TÁC PHẨM MÚA ĐƯƠNG ĐẠI

Dân tộc Chăm có một nền nghệ thuật múa truyền thống vô cùng phong phú, đa dạng được hình thành và phát triển sớm trong lịch sử. Do hoàn cảnh thay đổi, hình thái múa Chăm qua điêu khắc Chăm nay đã không còn tồn tại trong thực tế, mà chỉ còn lưu lại trên các bức phù điêu, pho tượng đá. Nhờ đó, các nhà nghiên cứu vũ đạo có thể hình dung ít nhiều về những tuyệt tác của người xưa, có cơ sở để đánh thức các vũ công hóa đá sống dậy với nhiều dáng vẻ sống động khác nhau, mang cả dấu ấn của thời xa vắng lẫn hơi thở của cuộc sống đương đại. Di sản điêu khắc Chăm là kho tàng nghệ thuật quý báu, trong đó, các giá trị của múa Chăm qua điêu khắc đã, đang và sẽ được khôi phục, phát huy trong những sáng tạo mới mang nhịp sống của thời đại.

KHÍ NHẠC DÂN TỘC ĐƯƠNG ĐẠI

Âm nhạc nói chung và âm nhạc dân tộc nói riêng không phải là những giá trị bất biến mà nó thay đổi liên tục theo nhu cầu của con người, thời đại. Trước sự lấn át của âm nhạc nước ngoài như hiện nay, chúng ta phải có phương hướng thích hợp trong kế thừa, phát huy nền âm nhạc dân tộc, đặc biệt, cần phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong sáng tác những tác phẩm cho nhạc khí, thể hiện nhu cầu của nền âm nhạc đương đại.

PHƯƠNG PHÁP DIỄN TẤU MỘT SỐ TÁC PHẨM GUITAR VIỆT NAM

Một trong những yếu tố quan trọng để đánh giá sự phát triển của nghệ thuật guitar đó là khả năng biểu diễn, trình tấu tác phẩm của nghệ sĩ. Sự thống nhất về cấu trúc, hình thức, nội dung nghệ thuật trong ý đồ của tác giả và cảm nhận riêng của nghệ sĩ biễu diễn, sẽ làm cho bản nhạc trở thành bức tranh âm thanh sống động. Với nhịp điệu, tiết tấu chính xác, uyển chuyển, hòa âm, điệu tính mạch lạc, nghệ sĩ đưa người nghe vào thế giới âm nhạc đầy cuốn hút, tạo nên tình yêu và khao khát cống hiến nghệ thuật trong mỗi người.

GIÁ TRỊ CỦA CÁC LÀN ĐIỆU HÒ VÀ LÝ Ở ĐỒNG NAI

Đồng Nai là nơi hội tụ nhiều nền văn hóa khác nhau như Chơ ro, Mạ, X’tiêng, Khơ me, Việt…, vừa thống nhất trong đa dạng, vừa thể hiện những nét đặc trưng, độc đáo riêng có của mỗi tộc người. Chiếm hơn 90% dân số, người Việt đã đưa những đặc trưng văn hóa của mình, đặc biệt là các làn điệu dân ca hò và lý, làm phong phú hơn kho tàng văn hóa Đồng Nai.

DÂN CA THANH HÓA TRONG CA KHÚC VIẾT VỀ XỨ THANH

Do vị trí địa lý, phương thức sinh hoạt, tập tục khác nhau, nên từ xa xưa Thanh Hóa đã hình thành nhiều vùng, trung tâm dân ca, dân vũ. Người Thanh Hóa sáng tạo ra các làn điệu dân ca, gửi gắm tâm tư, tình cảm vào những giai điệu mang âm hưởng của môi trường sống, không khí lao động, sinh hoạt hàng ngày. Đặc trưng về môi trường tự nhiên, xã hội đã sản sinh ra những làn điệu dân ca mang bản sắc riêng của Thanh Hóa. Vùng lưu vực sông Mã, sông Chu có hò sông Mã; vùng Viên Khê, Tuyên Hóa, Cổ Bôn (thuộc huyện Đông Sơn) tập trung nhiều trò diễn, diễn xướng dân gian nổi tiếng, tiêu biểu như diễn xướng múa đèn Đông Anh; huyện Thọ Xuân có trò Xuân Phả; huyện Nông Cống có tổ hợp hệ thống hát chèo thờ ở lễ hội đền Mưng; huyện Tĩnh Gia - giáp ranh tỉnh Nghệ An, có hát khúc (còn gọi là hát ru Tĩnh Gia) mang bóng dáng của hát giặm Nghệ Tĩnh...