Người giữ mạch nguồn văn hóa Ca Dong

Vượt quãng đường hơn 30km, từ thị trấn Trà My (huyện Bắc Trà My, Quảng Nam) đến chân đập Thủy điện Sông Tranh 2, rẽ trái rồi men theo cung đường bên hữu ngạn của dòng sông Tranh quanh co về hướng Tây Nam. Đến trụ sở UBND xã Trà Bui, rẽ trái theo con đường bê tông dẫn về cầu treo Trà Bui, hỏi bà Hồ Thị Dôn (71 tuổi) gần như ai cũng biết. Dừng chân giữa làng Lía (thôn 6), chúng tôi bắt gặp một phụ nữ Ca Dong, đang ngồi góc nhà sàn cặm cụi đan võng hướng nhìn ra dòng sông Bui ngày đêm vẫn chảy, trong một không gian thoáng đãng.

Bà Hồ Thị Dôn với công đoạn mắc múi cho võng

 

Thấy có khách tới thăm, bà Hồ Thị Dôn nở nụ cười thân thiện và không ngần ngại mời chúng tôi lên nhà uống nước. Tại đây, bà Dôn cho chúng tôi biết: Từ bé, bà đã được mẹ dạy từ những bài hát dân ca, đến đan võng và làm mọi việc bếp núc, nhà cửa. Rồi bà Dôn đứng dậy vào trong cầm ra cái kèn máp (một loại kèn nhỏ làm từ cây lách) và thổi một mạch bài dân ca về "Con gà gáy" theo điệu ra ngêq truyền thống của người Ca Dong cho chúng tôi nghe. Dừng kèn máp, bà Dôn hát thêm một làn điệu dân ca “ru con” Ca Dong nghe thật truyền cảm: "Con ngủ cho ngoan. Gà gáy sáng rồi. Mẹ dậy nổi lửa, nấu cơm. Rồi lên nương, đi rẫy. Kiếm cái ăn cho con…". Lời bài hát dù ngắn, nhịp điệu đơn giản nhưng khi bà Dôn cất tiếng hát đã tạo cho người nghe cảm giác yên bình, như lời hát ru của bà hay mẹ ngày xưa, mượt mà và sâu lắng.  

Kể về cơ duyên đến với dân ca Ca Dong, bà Dôn tâm sự, bà tiếp xúc với dân ca của dân tộc mình khá muộn so với bạn bè trong làng. Những kiến thức về dân ca Ca Dong của bà là học từ người mẹ. Theo bà Dôn, dân ca của người Ca Dong mang một đặc trưng riêng so với các dân tộc khác trong vùng. Đó là ở cách hát, nhịp điệu và ca từ vì ảnh hưởng của môi trường sống ngày xưa của người Ca Dong. Những làn điệu dân ca truyền thống như: kalêu, ra ngêq, ru con, plét, ahội, dê ôdê, đến làn điệu k’cheo trong những đêm lửa rừng bập bùng của mùa lễ hội của làng, thể hiện tâm tư tình cảm của người Ca Dong cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tốt tươi để người Ca Dong no cái bụng, sống gắn bó, hài hoà với thiên nhiên, núi rừng. Đó không chỉ bằng lời, mà còn bằng chuyển động nhịp nhàng của phụ nữ và thiếu nữ Ca Dong trong điệu múa xoang như để minh họa thêm cho lời hát.

Tại “Ngày hội văn hóa các dân tộc miền núi Quảng Nam lần thứ XIX năm 2018” tổ chức tại huyện Nam Giang vào tháng 7/2018, chúng tôi tình cờ gặp bà Hồ Thị Dôn, khi bà Dôn cùng đoàn nghệ nhân xã Trà Bui đang tái hiện Lễ cúng máng nước của người Ca Dong. Và rồi như chạm vào trong tâm thức, bà Dôn kể: Ngay từ lúc còn nhỏ, cũng như bao người con gái Ca Dong khác trong làng, bà đã được làm quen với chiếc võng đan bằng cây sa ri và được mẹ truyền dạy nghề đan võng từ đó. Nhưng cũng phải mất vài năm sau, bà mới có thể đan thành thạo một chiếc võng. Cái khó nhất của một cái võng được đan từ cây sa ri gồm có hai đầu võng. Khi tạo được một đầu rồi thì đầu võng thứ hai dễ hơn. Bởi vì, chỉ cần người đan để dư múi ra rồi thắt nó lại. Để cột được đầu võng, người đan phải đan theo chiều dài khoảng mười mấy múi dây. Không được để múi dây chẵn vì sẽ không có cái múi dây dư ra để cột thành đầu võng. Khi đan võng, người đan nó tuyệt đối không được đan lỗi. Vì khi đã bị lỗi thì chiếc võng nhìn trông như mớ bùi nhùi, muốn gỡ ra cũng không được. Võng sa ri, được người Ca Dong đan theo kỹ thuật riêng biệt và hoàn toàn thủ công. Quy trình đan võng này, đòi hỏi người đan không những khéo léo mà còn phải kiên trì, bền bỉ. Học đan võng phải bắt đầu chăm chú từ khi lột vỏ cây sa ri để lấy sợi, khi đã cảm thấy đủ háo hức và muốn học thì người già mới chỉ. 

Bà Hồ Thị Dôn (ngồi ngoài cùng bên phải), cùng đoàn nghệ nhân xã Trà Bui đang tái hiện Lễ cúng máng nước của người Ca Dong, tại “Ngày hội văn hóa các dân tộc miền núi Quảng Nam lần thứ XIX năm 2018” tổ chức tại huyện Nam Giang vào tháng 7/2018
 

Dưới sân, cạnh ngôi nhà sàn, bà Dôn đang truyền dạy nghề đan võng thủ công từ cây sa ri cho đứa cháu nội của mình nhưng miệng bà lúc nào cũng ngân nga vài làn điệu dân ca. Hát dân ca Ca Dong với bà như một thói quen. Mỗi khi ngồi đan võng, hay lúc nấu cơm canh cho gia đình, bà luôn hát hết bài dân ca này đến làn điệu dân ca khác. Bởi nó tạo cho bà sự hứng thú và hăng say hơn trong công việc, lại cảm thấy yêu đời. Kể cả những lúc rảnh rỗi, bà luôn ý thức truyền dạy lại cho con cháu trong nhà và mấy đứa nhỏ trong làng về nghề đan võng thủ công. Bởi việc đan võng tạo thêm thu nhập cho gia đình rất đáng kể.

Bà Dôn cũng cho rằng, khi truyền dạy lại cho lớp trẻ, điều khó khăn nhất là đam mê của các cháu nhỏ với văn hóa dân gian của người Ca Dong chưa đủ lớn. Các cháu sau khi học xong thì ít thực hành, lao vào các trò giải trí hiện đại nên không phát huy được sự sáng tạo, năng khiếu thật sự của mình. Bà cũng rất lo lắng trong tương lai không xa, các giá trị văn hóa truyền thống của người Ca Dong sẽ dần mai một. Mặt khác, trước nhịp sống hiện đại thì nhu cầu về nằm võng của người Ca Dong trong làng, trong xã cũng dần ít đi nên đã lâu, bà không còn đan võng để bán mà chỉ đan để phục vụ nhu cầu sinh hoạt trong gia đình, họ hàng. Trong điều kiện khó khăn đó, bà Dôn vẫn chưa bao giờ có ý định từ bỏ nghề đan võng thủ công từ cây sa ri, vẫn kiên trì “giữ lửa” nghề truyền thống này của người Ca Dong.

Theo anh Hồ Thanh Cường - Chánh Văn phòng UBND xã Trà Bui, hơn 10 năm qua, bà Hồ Thị Dôn đã tham gia rất nhiều lễ hội, hoạt động văn hóa văn nghệ do xã tổ chức, tham dự Ngày hội văn hóa các dân tộc do huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam tổ chức. Bà Dôn đã được các cấp tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen về các hoạt động trong việc gìn giữ văn hóa tại địa phương. Nay dù tuổi đã cao, bà Dôn vẫn giữ được ngọn lửa đam mê văn hóa truyền thống và hát dân ca, đan võng của dân tộc mình. Hiện tại, xã đã hoàn tất hồ sơ gửi lên các cơ quan ở huyện Bắc Trà My và ngành VHTTDL Quảng Nam, đề nghị công nhận bà Hồ Thị Dôn là Nghệ nhân Dân gian. 

Chúng tôi rời làng Lía (thôn 6), xã Trà Bui và chia tay bà Hồ Thị Dôn khi nắng chiều dần ngả về hướng Tây. Tôi vẫn nhớ mãi giọng hát nhẹ nhàng mà sâu lắng qua những làn điệu dân ca Ca Dong mà bà Dôn đã hát cho nghe. Chúng tôi thầm mong, những tâm huyết, sự tận tâm, trách nhiệm giữ gìn mạch nguồn văn hóa truyền thống Ca Dong ở xã Trà Bui của bà Dôn sẽ giúp lớp trẻ Ca Dong hôm nay hiểu, tích cực học tập, góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống độc đáo của đồng bào dân tộc Ca Dong trên huyện vùng cao Bắc Trà My (Quảng Nam).

 

NGUYỄN VĂN GIA PHÚC

Nguồn: Tạp chí VHNT số 507, tháng 8-2022

 

;