Nghệ thuật Chầu văn trong dòng chảy văn hóa đương đại

Năm 2012, Bộ VHTTDL đã đưa nghệ thuật Chầu văn vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đến tháng 12 năm 2016, Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, trong đó có nghi lễ Chầu văn đã được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Điều này đã khẳng định vị trí đặc biệt và giá trị tổng hợp của nghệ thuật Chầu văn trong đời sống tinh thần của người Việt.

Nhạc công miền Bắc đầu thế kỷ XX  - Ảnh: Tư liệu người Pháp chụp

 

Chầu văn (chữ Nôm: 朝文) là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, kết tinh hài hòa giữa âm nhạc, thi ca và các yếu tố tâm linh. Gắn bó mật thiết với tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và tín ngưỡng thờ Trần triều (đặc biệt là nghi lễ Lên đồng), Chầu văn vì thế mà được thực hành chủ yếu trong những không gian linh thiêng như đền, phủ, điện thờ.

Với giọng điệu nghiêm trang và trau chuốt, mỗi bản văn chầu thường ca tụng công đức, phẩm hạnh và sự uy linh của từng vị Thánh. Nghệ thuật này xuất hiện chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời lan tỏa đến một số địa phương Trung Bộ, hình thành từ khoảng thế kỷ XV-XVI.

Trong những năm trở lại đây, các hệ giá trị văn hóa truyền thống đang biến chuyển theo thời đại cả về hướng tích cực và tiêu cực, dĩ nhiên nghệ thuật Chầu văn không phải ngoại lệ. Mặc dù việc vận động, biến đổi của các loại hình di sản văn hóa phi vật thể cùng với thời đại là vấn đề tất yếu, song ranh giới giữa phát huy và biến tướng rất mong manh.

Cố Nghệ nhân Nguyễn Văn Tuất (ở giữa), Nghệ nhân Nguyễn Hà Cân (ngoài cùng bên phải) cùng các học trò dâng văn chầu tại Phủ Tây Hồ - Ảnh: Ngô Nhật Tăng
 

Đi tìm giá trị nguyên bản của nghệ thuật Chầu văn

Trải qua hơn nửa thiên niên kỷ cùng với nhiều thăng trầm và biến động, nghệ thuật Chầu văn cho đến ngày nay đã khẳng định những giá trị bền vững trong đời sống văn hóa, tâm linh tín ngưỡng của dân tộc.

Nói đến giá trị nguyên bản của Chầu văn, trước hết cần hiểu đây không phải là một loại hình nghệ thuật sân khấu biểu diễn, mà là tổng hòa giữa giá trị tín ngưỡng tâm linh, âm nhạc và văn chương, được quy định bởi những chuẩn mực về nghi lễ, ngôn ngữ và đạo đức của người thực hành. Trong không gian thiêng của nghi lễ Lên đồng, người hát Chầu văn thường được gọi là “thầy văn”, họ không đơn thuần là người hát, mà là người “hành đạo”, dâng văn chúc Thánh bằng lòng thành kính của mình. Trong văn có câu rằng:

臣弟子叩頭拱手

進文朝四府萬靈

Dịch:

“Thần đệ tử khấu đầu củng thủ

Tiến văn chầu tứ phủ vạn linh”

 Hay:

中欺笙拍琴歌

差言失意嗔婆開恩

Dịch:

“Trong khi sênh phách cầm ca

Sai ngôn thất ý xin Bà khai ân” 

Các thầy văn vì thế mà luôn đề cao sự nghiêm chỉnh, cẩn trọng và thành kính tuyệt đối trong lúc dâng văn chầu.

Nghệ nhân Nguyễn Hà Cân - Pháp sư trưởng tại Phủ Tây Hồ (Hà Nội) là một người luôn tận tâm với việc gìn giữ và phát huy vốn quý của dân tộc. Với hơn bốn mươi năm gắn bó cùng nghiệp cầm ca chúc Thánh, thầy không chỉ là người am hiểu tường tận nghi lễ, phong tục, mà còn là một kho tư liệu sống về văn hóa dân gian Việt Nam. Chia sẻ về nghệ thuật Chầu văn, thầy Nguyễn Hà Cân khẳng định: “Hát văn có bản sắc riêng biệt. Các làn điệu du dương nhưng sâu lắng. Về đàn nguyệt dù người đàn trình độ cao mấy nhưng về kết phải có ngón chùm chín chùm xanh thì mới ra chất hát văn cổ”. Với các nghệ nhân Chầu văn chân chính, họ luôn tâm niệm và răn mình “thị Thánh như thị Vương”, nghĩa là khi dâng văn chầu Thánh cũng như hầu cận nhà Vua. Chính vì vậy, các nghệ nhân luôn cẩn trọng trong từng tiếng hát, tiếng đàn, coi mỗi lời ca là một nén tâm hương dâng lên các đấng thần linh.“Đặc biệt hơn, người hát văn từ cách ngồi, nét mặt phải trang nghiêm thể hiện câu văn, chứ không như người biểu diễn các nghệ thuật cổ truyền khác” thầy Nguyễn Hà Cân nhấn mạnh. Chính những cách hành lễ ấy đã thể hiện thái độ cung kính, tự giác và ý thức tôn nghiêm cao độ, yếu tố đầu tiên làm nên giá trị nguyên bản của Chầu văn.

Thứ hai, giá trị nguyên bản của Chầu văn còn nằm ở tính chuẩn mực trong nghệ thuật ngôn từ và âm nhạc. Mỗi bản văn chầu đều được sáng tác và truyền tụng bằng các thể thơ truyền thống, chủ yếu là thể lục bát như: “Cầm đài luyện khúc năm cung/ Gọi hồn non nước dục lòng thế nhân/ Cung thương gió chuyển mây vần/ Hồ cầm vọng nguyệt hoa xuân mỉm cười” (Trích văn Cô Cửu Tỉnh), hay thể thất ngôn tứ tuyệt: “Giáp bạc bao phen rực lửa hồng/ Xông pha trăm trận cũng như không/ Ra tay cứu nước trừ nguy biến/ Tiếng để ngàn thu với núi sông” (Trích văn Quan Đệ Tam), và thể song thất lục bát: “Cho xã tắc sơn hà một mối/ Chí anh hùng há ngại gian lao/ Ai hay lá thắm cờ đào/ Chữ tòng sớm rắp buộc vào gót tiên” (Trích văn Giáng Tiên Kỳ Lục), từng câu hát phải đảm bảo yếu tố đối xứng, vần điệu mà người xưa gọi là “thượng tuỳ hạ tiếp”. Lời văn không chỉ để hát, mà còn mang tính tư tưởng, đạo đức và mỹ cảm. Các nghệ nhân khi hát phải am hiểu nội dung văn bản, thông thạo chữ Hán Nôm, hiểu rõ điển tích, điển cố, để thể hiện được ý nghĩa của từng lời văn chầu. Bên cạnh đó, âm nhạc Chầu văn là một hệ thống giàu tính bác học và linh hoạt. Nó sử dụng nhiều làn điệu khác nhau như Bỉ, Miễu, Thổng, Hãm, Kiều dương, Bỏ bộ, Dồn và các nhóm làn điệu Dọc, Cờn, Xá, Phú,… tương ứng với sắc thái của từng vị Thánh trong từng thời điểm. Hệ thống làn điệu và cấu trúc âm nhạc ấy vừa tuân thủ nghi thức tôn giáo, vừa cho phép nghệ nhân ứng biến trong phạm vi nhất định, để thể hiện sự uy linh, đức hạnh và dung mạo riêng của từng vị Thánh. Giai điệu của Chầu văn khi hào hùng, uy dũng để dâng lên các bậc nam thần; lúc lại khoan thai, dìu dặt dành cho các vị nữ thần. Chính sự dung hoà giữa tính quy phạm và tính ứng tác tạo nên chiều sâu nghệ thuật, một đặc trưng không thể tách rời khi nói đến giá trị nguyên bản của Chầu văn.

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi đời sống văn hóa ngày càng mở rộng và bị thương mại hóa, giá trị nguyên bản của Chầu văn đang đứng trước nguy cơ bị biến tướng, lệch lạc. Việc đi tìm giá trị nguyên bản của Chầu văn hôm nay là một yêu cầu mang tính văn hóa học và đạo đức học. Đó là việc khôi phục và tiếp nối những quy chuẩn của nghệ nhân xưa, tinh hoa và nét đẹp của Chầu văn, khi mà nghệ thuật này đang có nhiều biến động theo dòng chảy của thời đại.

Cố NNƯT Hoàng Trọng Kha dâng văn chầu (bản chữ Hán Nôm) - Ảnh: Ngô Nhật Tăng

 

Nghệ thuật Chầu văn đang biến đổi như thế nào?

Trong bối cảnh đương đại, thực hành nghi lễ Lên đồng ngày càng trở nên phổ biến và quen thuộc trong đời sống văn hóa của người Việt. Nghi lễ Lên đồng được tổ chức thường xuyên không chỉ cho thấy sức sống mạnh mẽ của tín ngưỡng thờ Mẫu mà còn kéo theo sự gia tăng đáng kể số lượng những người hát văn phục vụ cho nghi lễ này.

Việc truyền dạy nghệ thuật Chầu văn tuy được tổ chức bài bản, quy mô hơn, song ở một số nơi vẫn chưa thực sự truyền tải được cái căn bản, cái hồn, cái gốc của Chầu văn dẫn đến không ít người khi hành nghề đã cải biên, sáng tạo một cách thái quá, lệch lạc. Điển hình như việc hát chèn Cải lương, Quan họ thậm chí là Bolero vào Chầu văn, thật đáng buồn khi thực trạng ấy lại được phần lớn công chúng ủng hộ, yêu thích. Cùng với đó, Chầu văn đã bổ sung thêm nhiều nhạc cụ: từ một cây đàn nguyệt, trống, phách, thanh la, cảnh thì ngày nay đã bổ sung thêm đàn nhị, đàn tranh, các loại sáo, tiêu,… nhưng đây là sự tiếp nhận tương đối chọn lọc. Song thực tế một số cung văn mang cả đàn organ, guitar điện, sáo điện tử, trống điện tử,… vào Chầu văn, đây không thể xem là hướng phát triển khả dĩ.

Về lời văn cũng đã biến đổi ít nhiều. Nếu như trước đây, ngoài dấu hiệu nhận biết qua trang phục, người nghe có thể dễ dàng nhận ra vị Thánh đang được hầu thông qua nội dung và lời ca trong bản văn, thì nay điều đó không còn rõ ràng như trước. Thực tế cho thấy đã xuất hiện thêm rất nhiều các bản văn với ngôn từ khá tùy tiện, pha tạp và thiếu tinh tế, ví dụ như ở câu hát sau: “Cô xinh như hoa, cô đẹp như tiên dáng cô dịu dàng/ Bước chân nhẹ nhàng, làn môi hé cười làm ngất ngây trần gian” hay thậm chí còn bất kính hơn: “Gió mưa ướt hết bụi tre/ Cung văn hát mãi ông không nghe tí nào”. Điều này đã dẫn đến sự sai lệch, làm mất đi tính trang nghiêm và giá trị vốn có của nghi lễ.

Một số cung văn trẻ hiện nay chưa hiểu sâu về hệ thống thần linh, chưa nắm được lề lối, quy tắc trong Chầu văn, mà chủ yếu hát theo cảm tính, theo thị hiếu khán giả hơn là tinh thần thờ tự. Điều này khiến Chầu văn vốn là loại hình nghệ thuật tổng hợp, kết tinh giữa giá trị âm nhạc, văn học, nhân học và tâm linh đã dần bị thương mại hóa, tục hóa. Không ít nơi biến lễ nghi thành biểu diễn sân khấu, biến tiếng hát thiêng liêng thành công cụ giải trí. Lời văn bị giản lược, âm nhạc bị pha tạp. Khi cái thiêng bị thay thế bởi cái lạ, cái ồn, thì bản sắc của Chầu văn cũng dần bị xói mòn. Nếu như một loại hình âm nhạc truyền thống cần được bảo vệ khẩn cấp, điển hình như Ca trù vì số lượng nghệ nhân ít ỏi và có nguy cơ mai một; thì với Chầu văn, việc nhiều nghệ nhân nhưng lại thực hành sai lệch, xa rời tính nguyên gốc lại càng nguy hiểm hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh những biểu hiện đáng lo ngại ấy, cũng cần nhìn nhận rằng nghi thức Lên đồng và nghệ thuật Chầu văn ngày càng phổ biến là minh chứng cho sức sống mãnh liệt của tín ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống đương đại. Nhiều nghệ nhân tâm huyết cùng các cá nhân, tổ chức đã và đang nỗ lực bảo tồn, truyền dạy bài bản để thế hệ trẻ hiểu đúng, làm đúng và gìn giữ bản sắc của Chầu văn. Thực tế cũng cho thấy, một bộ phận lớn người trẻ yêu thích và thực hành di sản văn hóa truyền thống như Chầu văn cũng nhận thức được trọng trách và sứ mệnh của mình, không để cái pha tạp, tuỳ tiện lấn át đi giá trị đích thực của Chầu văn, bởi “giấy rách phải giữ lấy lề”.

Trong bối cảnh hiện nay, điều quan trọng nhất là phải kết hợp giữa giữ gìn cái tinh túy, cái hồn cốt thiêng liêng của Chầu văn, đồng thời phát huy có chọn lọc, dựa trên sự am hiểu về văn hóa và tín ngưỡng. Điều này phải được chính những người hát văn trực tiếp thực hiện đầu tiên. Chỉ khi đó, nghệ thuật Chầu văn mới thực sự được phát huy trong đời sống hiện đại mà không đánh mất đi giá trị tâm linh và thẩm mỹ nguyên bản. Nghệ thuật đích thực và tinh hoa văn hóa của dân tộc sẽ không dễ dàng mất đi do sự biến chuyển của thời gian, nó vẫn luôn hiện diện trong trái tim nhiều thế hệ.

Nghệ nhân Nguyễn Hà Cân truyền dạy cho các học trò - Ảnh: Ngô Nhật Tăng 
 

TRỊNH TUẤN KIỆT

Nguồn: Tạp chí VHNT số 626, tháng 11-2025

 

;