Để có những tác phẩm văn học, nghệ thuật "sống mãi với thời gian"

Văn học nghệ thuật (VHNT) ra đời đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần, thể hiện sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn và cốt cách con người Việt Nam, tiếp nối mạch nguồn truyền thống dân tộc. VHNT cách mạng của đất nước ta cũng như VHNT từ đổi mới đến nay đã đồng hành cùng dân tộc, bồi đắp, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam phát triển bền vững.

Tác phẩm trưng bày tại triển lãm "Nghệ sĩ là Chiến sĩ" (Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam) - Ảnh: congluan.vn

1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về văn học, nghệ thuật từ Đổi mới đến nay

Ngay từ năm 1943, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã xác lập rất rõ chủ trương của Đảng ta hết sức coi trọng mặt trận văn hóa (trong đó có VHNT) với 3 đặc tính cơ bản là dân tộc, khoa học và đại chúng. Điều này đã được cụ thể hóa qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, giành độc lập, tự do thống nhất đất nước... VHNT thực sự là một mặt trận, mỗi văn nghệ sĩ là một người chiến sĩ, không chỉ phản ánh chân thực sự nghiệp cách mạng hào hùng của dân tộc mà còn dùng ngòi bút, tác phẩm cổ vũ, động viên tinh thần đồng bào và chiến sĩ cả nước đánh thắng quân thù xâm lược; thể hiện khát vọng hòa bình, thống nhất Tổ quốc. Từ sau 1975, đất nước hòa bình, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội và đặc biệt tiến hành công cuộc đổi mới từ 1986, VHNT với sứ mệnh mới, phản ánh hiện thực cuộc sống trong giai đoạn mới.

Năm 1987, Nghị quyết số 05-NQ/TW của Bộ Chính trị về Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới, đã định hướng cho sự phát triển lớn mạnh của một nền văn hóa Việt Nam nói chung và VHNT nói riêng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Và chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại Nghị quyết số 04-NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt (1993) đã định hình cho nền VHNT Việt Nam một hướng đi vững chắc, trong đó “tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam, xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả về số lượng, chất lượng với nhiều thế hệ gắn bó sâu sắc với nhân dân các dân tộc, với sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng lãnh đạo”. Tuy nhiên, bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển của VHNT Việt Nam phải kể đến Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) (1998) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đã định hướng cho VHNT phát triển trong điều kiện đất nước bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh định hướng: “văn nghệ nước ta phản ánh hiện thực sinh động, chân thật và sâu sắc sự nghiệp của nhân dân trong cách mạng và kháng chiến, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc cũng như tái hiện lịch sử kiên cường, bất khuất của dân tộc. Đặc biệt khuyến khích các tác phẩm về công cuộc đổi mới thể hiện nổi bật những nhân tố tích cực trong xã hội, những nhân vật tiêu biểu của thời đại”, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII cũng đề ra nhiệm vụ: “ Chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho văn nghệ sĩ. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo lớp văn nghệ sĩ trẻ. Làm tốt công tác bảo vệ bản quyền tác giả” (1).

Ngày 16-6-2008, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới. Trong đó khẳng định: “Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa”; “Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ”; “Tài năng văn học, nghệ thuật và vốn quý của dân tộc... Văn nghệ sĩ, người chiến sĩ xây dựng và phát triển nền văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị phụng sự đất nước và dân tộc” (2). Nghị quyết số 23-NQ/TW cũng chỉ rõ: “Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp phải đưa nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật vào quy hoạch, kế hoạch phát triển, của từng địa phương, từng ngành. Xây dựng cơ chế lãnh đạo, quản lý khoa học, bảo đảm được định hướng chính trị; khắc phục những hiện tượng mất dân chủ hoặc can thiệp thô bạo đối với hoạt động văn học nghệ thuật, cũng như xu hướng thả nổi, không phê phán những tác giả, tác phẩm đi ngược lại các giá trị chân, thiện, mỹ, những giá trị tốt đẹp của dân tộc và cách mạng. Cấp ủy đảng các cấp có kế hoạch định kỳ làm việc với lực lượng sáng tạo và hoạt động văn học, nghệ thuật… Tăng mức đầu tư cho văn học, nghệ thuật; bảo đảm kinh phí cho các chương trình mục tiêu lớn, cho hoạt động sáng tạo của các hội văn học, nghệ thuật, xác định việc đầu tư này là đầu tư cho phát triển” (3). Đây có thể được coi là những định hướng căn bản cho VHNT nước nhà phát triển trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế.

Ngày 9-6-2014, Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, chỉ rõ nhiệm vụ phát triển sự nghiệp VHNT, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ… (4).

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Nhìn lại những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong 35 năm đổi mới gần đây, chúng ta có quyền tự hào về những đóng góp to lớn của nền văn hóa vào sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc. Những thành tựu nổi bật cần khẳng định là nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội” (5).

2. Những thành tựu của VHNT từ 1986 đến nay

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) đánh giá về thành tựu của VHNT: Nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống được giữ gìn. Có thêm nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài cách mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi mới. Nhiều bộ sưu tập công phu từ kho tàng văn hóa, dân gian và văn hóa bác học Việt Nam trong nhiều thế kỷ được xuất bản, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị tư tưởng, học thuật và thẩm mỹ của dân tộc. Hoạt động lý luận, phê bình đã đạt được những kết quả tích cực, khẳng định mạnh mẽ văn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy lùi một bước những quan điểm sai trái. Có thể nói, Đảng vẫn luôn có chủ trương, sách lược đề ra nhiều giải pháp hữu hiệu nhằm khuyến khích, thúc đẩy, tạo mọi điều kiện để văn nghệ sĩ cả nước sáng tác và có môi trường phát triển phù hợp; có đạo đức cách mạng, tinh thần dân tộc gắn bó sâu sắc, đoàn kết phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong mỗi tác phẩm của mình. Bên cạnh đó, tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho VHNT phát triển mạnh mẽ, đa dạng về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm nhằm nâng cao chất lượng toàn diện cho nền VHNT đất nước.

Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị nhận định: “Nhìn tổng thể, văn học, nghệ thuật đã nắm bắt được dòng mạch chính là chủ nghĩa yêu nước và nhân văn, gắn bó với dân tộc, nỗ lực phản ánh chân thật cuộc sống đấu tranh cách mạng và lao động sáng tạo của nhân dân, có nhiều tác phẩm tốt trong tất cả các loại hình nghệ thuật từ văn học, sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, mỹ thuật đến nhiếp ảnh, múa, kiến trúc... thể hiện qua những đề tài lịch sử, chiến tranh cách mạng và những vấn đề thời sự của đất nước. Chủ nghĩa nhân văn, phẩm chất nhân đạo được phát huy và đề cao. Văn học, nghệ thuật đã cố gắng phát hiện, khẳng định các nhân tố mới, tham gia cuộc đấu tranh lên án cái xấu, cái ác, sự biến chất, thoái hoá về nhân cách, đời sống và đạo đức trong một bộ phận xã hội. Công tác lý luận văn học, nghệ thuật có bước đổi mới, lý giải khoa học hơn quan hệ giữa văn học, nghệ thuật với chính trị, giữa hiện thực và nghệ thuật. Các hội văn học, nghệ thuật từ Trung ương đến địa phương tiếp tục giữ vững định hướng chính trị, cố gắng tập hợp, đoàn kết đội ngũ, đẩy mạnh hoạt động sáng tạo” (6). Qua đó cho thấy, trong giai đoạn đổi mới và hội nhập, VHNT luôn tìm hướng phát triển bền vững để phù hợp với thực tiễn: đổi mới về nội dung và hình thức sáng tác, đổi mới phương thức hoạt động quản lý; biến chuyển về tư duy sáng tạo. Từ đó, góp phần định hướng tư tưởng thẩm mỹ của nhân dân theo đường lối, chủ trương của Đảng đề ra.

Ngày 25-7-2023, phát biểu tại buổi lễ kỷ niệm 75 năm thành lập Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Trải qua những năm tháng đầy hy sinh, gian khổ của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, cũng như trong tiến trình đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt. Các thế hệ văn nghệ sĩ nối tiếp nhau đã sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị cao trên nhiều lĩnh vực, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (7).

Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị ra đời, cùng với các Nghị quyết khác đã và đang được cấp ủy đảng và chính quyền các cấp; các ngành Trung ương, Liên hiệp các Hội VHNT Trung ương, Hội địa phương các tỉnh, thành trong cả nước tiếp tục quan tâm triển khai thực hiện; ban hành nhiều cơ chế, chính sách đẩy mạnh phát triển VHNT nước nhà; khuyến khích văn nghệ sĩ, nhân dân phát huy tài năng...; trọng dụng tôn vinh trí thức, văn nghệ sĩ, nghệ nhân trên cơ sở cống hiến cho đất nước; đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác phẩm, công trình về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, trong công cuộc đổi mới đất nước...

Trong thời gian qua, Bộ VHTTDL đã triển khai nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ, thúc đẩy VHNT phát triển, như: mở nhiều trại sáng tác viết kịch bản, trong đó có trại sáng tác các tác phẩm “Sống mãi với thời gian”, tổ chức các hội thi, hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, Liên hoan phim… Đặc biệt, thời gian gần đây, đã có các đề án: Đề án Đầu tư quảng bá các tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu của Việt Nam và thế giới; Đề án phát triển văn học nghệ thuật góp phần nuôi dưỡng tâm hồn con người Việt Nam, giai đoạn 2025-2030; Đề án xây dựng một số chương trình nghệ thuật đỉnh cao. Về công tác thể chế, Bộ VHTTDL đã xây dựng, tham mưu để Chính phủ trình Quốc Hội thông qua: Luật Điện ảnh (sửa đổi); quy định về quyền tác giả và quyền liên quan tại Luật Sở hữu trí tuệ (sửa đổi)…; Xây dựng Nghị định về Văn học; Nghị định về các ngành nghề chuyên sâu đặc thù trong lĩnh vực đào tạo nghệ thuật…

3. Những hạn chế cần khắc phục của VHNT và nguyên nhân

Bên cạnh những thành tựu quan trọng, VHNT ở nước ta vẫn còn những mặt hạn chế chưa được khắc phục.

Nghị quyết số 23-NQ/TW năm 2008 của Bộ Chính trị chỉ rõ: Trong sáng tác, biểu diễn, truyền bá tác phẩm VHNT, không ít các tác phẩm và hoạt động chưa thể hiện được tính chất tiên tiến và bản sắc dân tộc, chưa có các tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Một số văn nghệ sĩ còn hạn chế trong tiếp cận và nhận thức những vấn đề mới của cuộc sống, chưa cảm nhận đầy đủ ý nghĩa, chiều sâu và tính phức tạp của quá trình chuyển biến mang tính lịch sử trong thời kỳ mới của đất nước. Có biểu hiện xa lánh những vấn đề lớn lao của đất nước… Trong một số trường hợp, có biểu hiện cực đoan…, hoặc bị các thế lực thù địch lôi kéo sáng tác và truyền bá các tác phẩm độc hại, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân và đất nước… (8). Nghị quyết số 33-NQ/TW chỉ rõ Ban chấp hành năm 2019 của Trung ương Đảng khóa XI cũng chỉ ra những hạn chế của VHNT: “Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác” (9).

Trên các diễn đàn Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW tại các tỉnh, thành trên cả nước (năm 2022) đã nêu ra mặt hạn chế về việc chất lượng tác phẩm, nội dung các tác phẩm chưa phản ánh được thực tế về các công cuộc đổi mới; chưa có sức lan tỏa, chưa xây dựng được những hình tượng tiêu biểu trong lao động, sản suất, kinh doanh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Đặc biệt, trên mặt trận tư tưởng ngày càng thiếu vắng các tác phẩm VHNT sáng tác đấu tranh trực diện với những quan điểm sai trái, thù địch. Đánh giá về hoạt động VHNT sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW, bên cạnh ghi nhận nhiều kết quả tích cực đạt được, Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa đã nhận định: “Các tác phẩm xuất hiện nhưng chất lượng chưa tương xứng với số lượng, còn ít tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật còn không ít hạn chế” (10).

Tại Hội thảo “Tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển Văn học nghệ thuật Thủ đô trong thời kỳ mới”, năm 2023, nhà thơ Bằng Việt, nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội đã thẳng thắn nhìn nhận và chỉ rõ những mặt còn tồn tại hiện nay của phát triển VHNT trong cả nước nói chung qua 15 năm vẫn chưa được khắc phục. Cụ thể: “vẫn còn các tác phẩm có biểu hiện xa lánh những vấn đề lớn lao của đất nước, chạy theo các đề tài nhỏ nhặt, tầm thường, chiều theo thị hiếu thấp kém; tình trạng “nghiệp dư hóa” các hoạt động văn học, nghệ thuật ngày một tăng; lý luận văn học, nghệ thuật còn xơ cứng, kém năng động; các sáng tác có giá trị được giới thiệu ra nước ngoài còn rất hạn chế;…kinh phí, ngân sách đầu tư cho văn học, nghệ thuật chưa tương xứng với yêu cầu mới…” (11).

Những nguyên nhân làm hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trên một số lĩnh vực chuyên môn về văn học, nghệ thuật còn thiếu, phải áp dụng quy định của luật khác vào lĩnh vực chuyên ngành, gây ra khó khăn nhất định trong triển khai thực hiện do tính đặc thù của hoạt động nghệ thuật. PGS,TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên thường trực Ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội cho rằng: Việc tôn vinh tài năng và cống hiến của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức còn có những bất cập, vướng mắc, chậm được sửa đổi, nhất là những chính sách cho các nghệ nhân nhân dân, chính sách bảo tồn, phát huy tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian truyền thống…. Chính sách ưu đãi đầu tư, thuế, phí, tín dụng, đất đai cho phát triển sự nghiệp văn hóa nói chung, văn học, nghệ thuật nói riêng còn nhiều bất cập. Luật Đầu tư và Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) chưa quy định lĩnh vực văn hóa là ngành, nghề được ưu tiên khuyến khích. Việc đưa văn hóa, văn nghệ đến với đồng bào vùng sâu, vùng xa ở các tỉnh biên giới, tuy đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng được so với yêu cầu” (12).

NSND Vương Duy Biên - Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam thì nhìn nhận: “Tất cả những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước được triển khai cụ thể như: đầu tư, hỗ trợ sáng tác hằng năm; trao, tặng giải; mở Trại sáng tác theo chủ đề cho tham gia, kết hợp thâm nhập thực tế xã hội, tới các vùng địa phương, nơi trọng điểm kinh tế để có tư liệu, khơi nguồn cảm hứng sáng tạo; bồi dưỡng kiến thức lý luận, phê bình; tọa đàm các chủ đề văn học nghệ thuật; hay tham gia nghiên cứu các công trình nghệ thuật cổ truyền, truyền thống... Đó là sự hỗ trợ từ khách quan; song, bản thân người nghệ sĩ cũng phải có một trách nhiệm đối với đất nước và chính bản thân của nghệ sĩ…” (13). Rõ ràng, để có những tác phẩm nghệ thuật sống mãi với thời gian cần nỗ lực từ nhiều phía: thể chế hóa quy chế của Đảng về VHNT cần phải kịp thời và sát thực tiễn để tạo một môi trường lành mạnh cho sáng tác nghệ thuật. Mặt khác, bản thân đội ngũ những người sáng tác phải nỗ lực tìm tòi, sáng tạo, bám sát hơi thở cuộc sống, thực tiễn sinh động đổi mới của đất nước.

(Còn nữa)

______________________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương (khóa VIII), tulieuvankien.dangcongsan.vn.

2, 3, 6, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Bộ Chính trị, khóa X về Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, tulieuvankien.dangcongsan.vn.

4, 9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, dangcongsan.vn, 29-7-2023.

5. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhandan.vn, 24-11-2021.

7. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đội ngũ văn nghệ sĩ nước nhà cần tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu của sự nghiệp chấn hưng văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ mới, nhandan.vn, 25-7-2023.

10. Nhật Minh, Nghiên cứu đổi mới tư duy, phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý nhằm tạo động lực thúc đẩy văn học, nghệ thuật, tuyengiao.vn, 19-12-2022.

11. An Nhi, 15 năm xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật Thủ đô đáp ứng thời kỳ mới, hanoimoi.vn, 16-3-1023.

12, 13. Trả lời phỏng vấn của tác giả.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 28-11-1987 của Bộ Chính trị về Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới, bvhttdl.gov.vn.

2. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.

TS UÔNG THỊ MAI HƯƠNG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 557, tháng 1-2024

;