10 năm thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa nhìn từ lĩnh vực giao lưu văn hóa với thế giới

     ​​​​​​​Từ sau năm 1986, đặc biệt là 10 năm gần đây, sau khi Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, Đảng, Nhà nước ta rất chú trọng, quan tâm đến chiến lược, chính sách; tổ chức hoạt động bài bản, nâng cao chất lượng, cải tiến các hình thức, phương pháp để thúc đẩy giao lưu văn hóa (GLVH) và đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. GLVH không chỉ do hoạt động của khu vực công, mà còn có hoạt động của khu vực tư, không chỉ do văn nghệ sĩ chủ đạo mà các công dân tích cực, có tài năng cũng có cơ hội tham gia. Các lĩnh vực ngoại giao công chúng, ngoại giao văn hóa chú ý nhiều hơn đến khía cạnh GLVH để phục vụ mục đích của mình. Khoa học công nghệ, số hóa, phương tiện truyền thông mới được ứng dụng rộng rãi trong GLVH.

     1. Thành tựu trong hoạt động GLVH

     Sau hơn 30 năm đổi mới, hoạt động GLVH đã đạt được một số kết quả nổi bật. Nhiều hoạt động (ngày văn hóa Việt Nam, biểu diễn nghệ thuật, lễ hội văn hóa du lịch, chiếu phim, triển lãm ảnh, sách, sản phẩm văn hóa nghệ thuật, hội thảo, xúc tiến, trao đổi, quảng bá du lịch...) được tổ chức ở nhiều quốc gia, đem lại sự thấu hiểu, thân thiện trong cộng đồng quốc tế. Tại các diễn đàn quốc tế, đại diện Việt Nam đã thể hiện được sự năng động, tinh thần trách nhiệm, vị thế đất nước. Không chỉ tổ chức ở nước ngoài, nhiều hoạt động GLVH quốc tế được tổ chức tại Việt Nam, tăng cường sự tiếp xúc, tương tác với văn hóa, con người Việt Nam. Thông qua các hoạt động GLVH, Việt Nam từng bước nâng cao khả năng hội nhập văn hóa; tiếp nhận hiệu quả những giá trị văn hóa nghệ thuật và phương thức thể hiện hiện đại, hấp dẫn, tiêu biểu của thế giới, làm phong phú và nâng tầm về cả hình thức, nội dung, giá trị các sản phẩm văn hóa dân tộc. Nhiều cơ sở văn hóa các nước như: Viện Goeth, Thư viện Phòng Văn hóa Sứ quán Mỹ, các Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Pháp, Nhật, Hàn… tạo thêm điều kiện đẩy mạnh hoạt động giao lưu với văn hóa nước ta.

     Các hoạt động văn hóa đối ngoại ngày càng trở thành một kênh chuyên nghiệp, hiệu quả góp phần vào thành tựu chung của hoạt động GLVH, từng bước nâng cao vị thế, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên trường quốc tế. Hoạt động này không chỉ đẩy mạnh quan hệ với cộng đồng nước ngoài mà còn truyền bá văn hóa đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, gắn kết kiều bào với quê hương, thông qua họ khuếch tán văn hóa Việt tới cộng đồng nước sở tại.

     Một số lĩnh vực được thế giới quan tâm đặc biệt và đang là xu thế phát triển cũng được Việt Nam chú trọng như thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan; tổ chức triển khai Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

     Quảng bá văn hóa nghệ thuật Việt Nam là một nội dung quan trọng trong các năm Việt Nam tại các nước như Nga, Italia, Trung Quốc, Lào… hay các năm luân phiên Việt - Pháp, Việt - Nga… Các lễ hội Việt Nam hằng năm tại Nhật, Hàn Quốc đang trở thành kênh thu hút đầu tư, du lịch tới Việt Nam. Mô hình trung tâm văn hóa, nhà văn hóa Việt Nam tại Pháp, Đức, Thái Lan, Lào… góp phần kết nối, truyền bá các nét đặc sắc, điển hình văn hóa nghệ thuật Việt Nam tới người bản địa và cộng đồng người Việt. Tính ra, mỗi năm nước ta ký khoảng 20 văn bản hợp tác văn hóa với nước ngoài và ngày càng chú ý hiệu quả việc triển khai hợp tác.

     Đối với quảng bá du lịch, thương hiệu đất nước, ngành chức năng đã tích cực quảng bá các danh lam, thắng cảnh, những điểm đến hấp dẫn tại nhiều trang tin, website, tạp chí, kênh truyền thông phổ biến như: Travel Leisure, National Geographic, Code Nast Traveleer… Đài báo lớn nhiều nước đã nhiều lần đăng tin bài, hình ảnh Việt Nam. Nghệ thuật tạo hình, hội họa bước đầu được truyền thông quốc tế, sàn đấu giá uy tín ghi nhận với nhiều tranh của danh họa trong nước như Lê Phổ, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh… được định giá cao. Các sự kiện văn hóa quốc tế như Festival Huế, Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội, Liên hoan Xiếc quốc tế, Liên hoan Rối quốc tế… được các nhà chuyên môn, nghệ sĩ, nhà báo, du khách quốc tế tham gia đông đảo, nhiệt tình ủng hộ.

     Từ kết quả ngoạn mục của bộ phim Hollywood Kong: Skull Islands thực hiện hơn 70% cảnh quay tại Việt Nam, các đoàn truyền hình, làm phim thế giới đã tìm đến Việt Nam như một địa điểm lý tưởng cho việc quay các cảnh huống thú vị, điển hình ở Đông Nam Á. Nhiều hãng truyền thông thực hiện các chương trình truyền hình thực tế, khám phá, khảo sát, nghiên cứu văn hóa, du lịch, đời sống, tập quán của Việt Nam và phát sóng trên các đài truyền hình có uy tín quốc tế tại Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Australia… Việc tham gia các cuộc thi giành các danh hiệu hoa hậu mang tính quốc tế, các sự kiện trình diễn thời trang, ẩm thực thuần Việt được tổ chức trong, ngoài nước cũng thêm hương sắc Việt trong GLVH hiện đại…          

     2. Hạn chế trong hoạt động GLVH

     Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng so với yêu cầu của công cuộc hội nhập và phát triển đất nước, các hoạt động GLVH của Việt Nam vẫn chưa chọn được chính xác thế mạnh của văn hóa khi giao lưu; chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của tình hình mới trong khi nhiều nước chọn được lợi thế so sánh về văn hóa, sử dụng GLVH như một “sức mạnh mềm”, khẳng định được thương hiệu, vị trí đáng nể về nội lực văn hóa của họ (1).

     Công tác truyền thông, giải thích, nâng cao nhận thức, phát huy vai trò trách nhiệm các cấp, ngành, tầng lớp nhân dân nâng cao hiểu biết về GLVH còn nhiều hạn chế. Cách thức giới thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập, phát triển của quốc gia thời hiện đại. Số lượng các chương trình Việt Nam chủ động tổ chức hằng năm ở nước ngoài còn hạn chế do ngân sách ít, vẫn còn dàn trải.

     Các chương trình có chất lượng cao, đặc sắc chưa nhiều. Nội dung các hoạt động GLVH chưa khai thác hết tiềm năng kho tàng văn hóa Việt Nam, chưa giới thiệu được sự phát triển của nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam hiện đại.

     Sự liên kết, phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức đối ngoại nhân dân, các tổ chức nghệ thuật nhà nước và tư nhân, các nghệ sĩ tự do và các doanh nghiệp trong GLVH còn rời rạc, thiếu kết dính. Công tác truyền thông về GLVH chưa được quan tâm thường xuyên và đúng mực nên chưa nhân rộng được ảnh hưởng và sức lan tỏa của các hoạt động GLVH trong thời đại công nghệ 4.0.

     Việc phối hợp, lồng ghép các hình thức trong GLVH giữa các cấp ngành vẫn chưa bài bản, nề nếp, khoa học, hiệu quả; nhiều khi vẫn tiến hành theo nếp cũ, thiếu một tầm nhìn bao quát, sáng tạo, hấp dẫn.

     Các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam còn non trẻ, các doanh nghiệp văn hóa có quy mô nhỏ lẻ, phân tán, chưa tạo ra được những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

     Nguồn nhân lực trong lĩnh vực GLVH không đồng đều về trình độ, khả năng ngoại ngữ cũng như sự am hiểu về văn hóa, luật pháp và phong tục, tập quán quốc tế (2). Công tác nghiên cứu, dự báo, định hướng hoạt động GLVH còn yếu.

     Về tổng thể, mức độ đầu tư cho ngành văn hóa trong tổng chi ngân sách tương đối thấp so với các lĩnh vực khác. Các nguồn vốn xã hội hóa và nguồn vốn nước ngoài cho lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là công tác GLVH, chiếm tỷ trọng nhỏ, chưa tương hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và tầm quan trọng của lĩnh vực này. Chưa có các chính sách khuyến khích, ưu đãi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động GLVH.

     3. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động GLVH

     Một là, trong công tác quản lý một lĩnh vực rộng, đa ngành, thiên về năng lực sáng tạo là GLVH, nên chú trọng lựa chọn cán bộ quản lý chủ chốt là các chuyên gia vừa am hiểu chuyên môn, vừa hiểu cơ chế quản lý để chỉ đạo sát hợp, hiệu quả. Các cơ quan quản lý liên quan cần chủ động phối hợp xây dựng một chiến lược cụ thể về GLVH.

     Hai là, một mặt kiện toàn công tác quản lý, giám sát các hoạt động quảng bá và tiếp nhận các giá trị văn hóa không chỉ thông qua việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, điều chỉnh chính sách mà còn áp dụng công nghệ hiện đại trong lưu trữ, phân tích, xử lý, phân phối các sản phẩm văn hóa, chia sẻ thông tin và bảo đảm an toàn nội dung thông tin.

     Ba là, cần chú ý đến vai trò của truyền thông đại chúng trong GLVH. Trong thời kỳ hội nhập, các phương tiện truyền thông hiện đại có thể liên tục truyền bá, phổ cập thông tin, hình ảnh, âm thanh… mọi mặt đời sống văn hóa, giá trị văn hóa cho công chúng. Khi dùng các phương tiện thông tin đại chúng để GLVH, phải chú ý đưa “các nét văn hóa độc đáo đã được khẳng định chứ không đưa cái đơn giản có tính phong trào, bộc lộ sự yếu kém chuyên môn, thiếu sáng tạo nghệ thuật hoặc để lộ bí quyết, để sơ hở bị chiếm đoạt thương hiệu sản phẩm” (3).

     Bốn là, GLVH gắn bó hữu cơ như hình với bóng, tương thông với ngoại giao văn hóa nên phải thống nhất nhận thức trong việc thúc đẩy sâu rộng chính sách ngoại giao văn hóa, không chỉ chú trọng đến tổ chức trong nước mà kiện toàn bộ phận phụ trách GLVH, ngoại giao văn hóa ở các cơ quan đại diện nước ngoài (nhất là các đại sứ quán, nhà văn hóa...); phải coi ngoại giao văn hóa là lĩnh vực có thể tiếp xúc, mở đường, vận động, trao đổi, tiếp thu, quảng bá nhằm tăng cường hiểu biết, thân thiện, tín nhiệm giữa Việt Nam và các nước để đẩy mạnh hợp tác, đầu tư, thương mại, du lịch, các dịch vụ khác trong văn hóa nghệ thuật và tiến tới cả trong kinh tế, giáo dục, môi trường, xã hội…

     Năm là, việc thưởng phạt, tôn vinh, sử dụng, đãi ngộ những người tài giỏi trong hoạt động GLVH, văn hóa đối ngoại cần công bằng, kịp thời. Chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ người làm việc trong các cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật, ngoại giao văn hóa; tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế, trao đổi chuyên môn giữa các nhà hoạt động về GLVH, học giả, văn nghệ sĩ, nhà sáng tác… Đối với các ngành công nghiệp văn hóa, thủ công mỹ nghệ đặc sắc, nhà nước cần chọn lọc những ngành nghề ta có lợi thế về chế tác, nguyên liệu, truyền thống lâu đời, có thị trường tiêu thụ trên thế giới để xây dựng, phát triển.

     Sáu là, để hoạt động giao lưu văn hóa có hiệu quả, Nhà nước cần đầu tư đầy đủ, kịp thời cả về con người (đặc biệt chú trọng người tài), cải tiến bộ máy quản lý, cơ sở vật chất, trang bị cho lĩnh vực này. Không nên đầu tư theo kiểu bình quân mà nên đầu tư căn cứ vào kết quả đầu ra, với đối ngũ thẩm định uy tín (có thể mời cả chuyên gia nước ngoài). Đối với một số lĩnh vực có tác dụng truyền thông quảng bá văn hóa rõ nét, dễ kết nối với thế giới như văn học, âm nhạc nên chú trọng đầu tư nhiều hơn.

________________

     1. Trần Nhất Hoàng, Sức sống nội sinh quan trọng để quảng bá và hội nhập quốc tế, VGP News, ngày 23-4-2019.

     2. Lê Thanh Bình, Vũ Trọng Lâm, Văn hóa đối ngoại Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.99.

     3. Lê Thanh Bình, Vũ Trọng Lâm, Truyền thông giao lưu văn hóa với vấn đề bảo vệ lợi ích và an ninh văn hóa quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.46.

 

Tác giả: Lê Thanh Bình

Nguồn: Tạp chí VHNT số 421, tháng 7-2019

 

;