1. Vài nét về du lịch văn hóa
Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, gồm tất cả những gì liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của con người, là mọi khía cạnh trong sự tiến hóa cũng như phát triển qua hàng ngàn năm; là kết quả sáng tạo, sự biến hóa, thích nghi của xã hội loài người. Sản phẩm văn hóa chính là đời sống, là những gì gắn liền với con người, do con người sáng tạo ra và nhằm phục vụ, đáp ứng nhu cầu của con người, nó đã được tạo ra và duy trì trong một thời gian dài, qua nhiều thế hệ con người và mang đậm tính bản địa vùng miền. Chính vì yếu tố đặc biệt này, không phải quốc gia nào cũng có thể phát triển được loại hình du lịch văn hóa. Việt Nam với mấy ngàn năm lịch sử văn hiến, 54 dân tộc, đa dạng về văn hóa trải dài suốt dải đất hình chữ S là một tiềm năng to lớn cho phát triển loại hình du lịch này.
Du lịch văn hóa là loại hình du lịch được phát triển trên cơ sở khai thác giá trị văn hóa, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tôn vinh giá trị văn hóa mới của nhân loại. Tài nguyên du lịch văn hóa bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng, khảo cổ, kiến trúc; giá trị văn hóa truyền thống, lễ hội, văn nghệ dân gian và các giá trị văn hóa khác; công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng cho mục đích du lịch. Du lịch văn hóa được hiểu là “sự di chuyển của con người đến các điểm du lịch văn hóa xa nơi thường trú của họ, với mục đích thu thập thông tin và kinh nghiệm mới để đáp ứng nhu cầu văn hóa của họ”, các nhà hoạch định chính sách, ban quản lý du lịch và các nhà quản lý văn hóa trên thế giới vẫn tiếp tục coi du lịch văn hóa là một nguồn tiềm năng tăng trưởng du lịch quan trọng. Du lịch văn hóa là loại hình du lịch thường thu hút du khách chi tiêu cao và ít gây thiệt hại cho môi trường hoặc văn hóa địa phương, trong khi đóng góp rất nhiều vào nền kinh tế và hỗ trợ văn hóa. Tuy nhiên, các nhà bình luận khác cho rằng, du lịch văn hóa có thể gây hại nhiều hơn lợi ích, cho phép du khách văn hóa thâm nhập vào môi trường văn hóa nhạy cảm như là nhân viên bảo vệ của du khách.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ hiện nay, việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa độc đáo, giàu bản sắc cần được quan tâm và chú trọng hơn. Du lịch là một trong những hoạt động có ảnh hưởng sâu sắc tới bảo tồn các giá trị văn hóa vì chính các giá trị văn hóa tạo thành các sản phẩm du lịch thu hút khách du lịch. Các hoạt động du lịch văn hóa sẽ không chỉ đem lại nguồn thu lớn cho mỗi quốc gia mà còn tạo cơ hội để quảng bá hình ảnh văn hóa dân tộc Việt Nam ra thế giới. Tuy nhiên, việc bảo tồn sự đa dạng và nguyên bản nhưng phải lược bỏ những vấn đề tiêu cực, giữ gìn những giá trị tích cực lại là một điều không hề đơn giản trong bối cảnh mới. Bởi cùng với sự phát triển cuộc sống, các xu hướng hiện đại hóa và nhất là trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, du lịch thông minh đang là xu hướng mới được quan tâm.
2. Thực trạng phát triển du lịch văn hóa ở Việt Nam
Trong những năm qua, việc gia tăng chất lượng văn hóa trong du lịch ở Việt Nam khẳng định văn hóa là nội dung đích thực của du lịch, tạo sự độc đáo, đặc sắc, hấp dẫn của sản phẩm du lịch Việt Nam, góp phần tạo dựng hình ảnh du lịch Việt Nam trong lòng du khách và bạn bè quốc tế.
Festival Huế là lễ hội văn hóa nghệ thuật, du lịch quy mô quốc gia và quốc tế - Ảnh: Thanh Hà
Các biểu hiện trực quan về văn hóa du lịch như cảnh quan, danh lam thắng cảnh được tôn tạo và hình thành; kiến trúc các công trình du lịch như cơ sở lưu trú du lịch, cơ sở vui chơi giải trí, điểm tham quan đã có sự kết hợp hài hòa tính dân tộc và hiện đại; thiết kế nội thất của cơ sở vật chất du lịch gần gũi với môi trường, với nét đẹp truyền thống từ chất liệu đến sắp đặt, bài trí theo văn hóa địa phương... ngày càng được quan tâm, thu hút nhiều du khách. Tất cả những đổi mới nêu trên trong văn hóa du lịch đã góp phần khai thác tốt hơn tiềm năng và thế mạnh về du lịch của đất nước, giảm bớt những hạn chế về mặt chủ quan, vượt qua các khó khăn, thách thức, tạo thêm sự hấp dẫn du lịch, tăng thêm khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam, được bạn bè và du khách trong và ngoài nước đánh giá cao.
Tuy nhiên, văn hóa du lịch của Việt Nam còn những biểu hiện không phù hợp, ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh du lịch quốc gia, mỗi vùng miền, từng địa phương và doanh nghiệp du lịch, vì thế cần thực hiện một số giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa du lịch ở Việt Nam: nâng cao nhận thức và tiếp tục đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo và quản lý văn hóa du lịch; tăng cường quản lý nhà nước về văn hóa du lịch; tăng cường nguồn lực cho xây dựng và phát triển văn hóa du lịch; phối hợp liên ngành, liên vùng và xã hội hóa để phát huy sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa du lịch.
Là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, mang nội dung văn hóa sâu sắc; trên cơ sở, nền tảng văn hóa dân tộc, vùng miền, hoạt động du lịch luôn đem đến cho du khách những sản phẩm chứa đựng các giá trị nhân văn đặc sắc mang sắc thái bản địa. Điều đó cho thấy những sản phẩm du lịch cũng chính là những sản phẩm của văn hóa du lịch.
Văn hóa có ý nghĩa quyết định trong các mối quan hệ giữa các cá nhân và cộng đồng, giữa các quốc gia trên thế giới trong tiến trình toàn cầu hóa bởi vì bản chất của toàn cầu hóa chính là sự giao thoa giữa mọi mặt của đời sống xã hội. Trong nền kinh tế tri thức, mọi sản phẩm do con người sáng tạo ra đều chứa đựng hàm lượng trí tuệ và hàm lượng văn hóa cao. Do vậy có thể nói, mỗi sản phẩm do con người tạo ra trong giai đoạn hiện nay đều là sản phẩm văn hóa. Từ đó cho thấy, các sản phẩm du lịch đều phải là sản phẩm văn hóa. Mỗi một sản phẩm du lịch đều hàm chứa những giá trị văn hóa sâu sắc. Do vậy, trong du lịch, truyền bá các giá trị văn hóa Việt Nam tới các đối tượng du khách khác nhau là công việc hết sức quan trọng. Phải nghiên cứu, tìm hiểu về con người Việt Nam, về văn hóa Việt Nam.
Về di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, nước ta có 95 di tích được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, 3.466 di tích xếp hạng di tích quốc gia và gần 10.000 di tích cấp tỉnh. Đến nay, Việt Nam có 27 di sản thế giới được UNESCO công nhận, trong đó có 8 di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, đó là: Quần thể di tích Cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Khu di tích Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Thành Nhà Hồ, Khu danh thắng Tràng An; 12 di sản văn hóa phi vật thể, 7 di sản tư liệu.
Việt Nam còn là nước có chế độ chính trị ổn định, có nguồn nhân lực dồi dào. Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế đối ngoại phát triển, trong đó có du lịch.
Những yếu tố trên đã tạo điều kiện thúc đẩy ngành du lịch phát triển mạnh mẽ. Trong đó, 2018 là năm thành công, phát triển ấn tượng của ngành du lịch. Tổng số khách quốc tế đến Việt Nam trong năm 2018 lên đến hơn 15 triệu lượt, tăng 19,9% so với cùng kỳ năm 2017. Bên cạnh đó, ngành du lịch cũng đã phục vụ 80 triệu lượt khách nội địa, trong đó có gần 30 triệu khách lưu trú. Tổng thu từ du lịch đạt 620.000 tỷ đồng (tương đương 27 tỷ USD) (Tổng cục Du lịch, 2019).
Tất cả con số trên đều đã bằng hoặc vượt chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, đó là đón 10-10,5 triệu lượt khách quốc tế; 47-48 triệu lượt khách nội địa; tổng thu từ khách du lịch đạt 17-18 tỷ USD.
3. Định hướng phát triển du lịch văn hóa trong thời gian tới
Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam xác định: “Văn hóa, thể thao và du lịch có mối liên hệ chặt chẽ, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Văn hóa là nền tảng và là điều kiện quan trọng để phát triển thể thao và du lịch; ngược lại, thể thao và du lịch phát triển tạo điều kiện để văn hóa phát huy, giữ vai trò làm động lực phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Việc nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng và nhân cách văn hóa của các hoạt động thể thao và du lịch; phát triển du lịch văn hóa; sưu tầm, khai thác các trò chơi dân gian truyền thống và đưa các bộ môn thể thao dân tộc vào các hội thao và hệ thống giải hàng năm… làm phong phú thêm đời sống văn hóa, là cơ hội để giới thiệu, tôn vinh văn hóa Việt Nam. Việc quy hoạch tạo lập không gian văn hóa thư giãn và thoải mái cho mọi người; phát triển thể thao giải trí… mở ra những cơ hội và khả năng mới cho phát triển văn hóa du lịch. Sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa 3 lĩnh vực này tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển nhanh, toàn diện, hiệu quả, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người, bản sắc văn hóa Việt Nam ra thế giới”.
Định hướng phát triển du lịch văn hóa ở Việt Nam thời gian tới là cần khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên du lịch văn hóa, cần tập trung khai thác các điểm du lịch văn hóa, tour du lịch văn hóa phù hợp với nhu cầu của các thị trường trọng điểm... Đồng thời, phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa chuyên đề chất lượng cao như các tour chuyên về văn hóa ở các vùng, miền trên cả nước.
Để góp phần vào việc xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa cho giai đoạn tiếp theo, ngành du lịch cần lưu ý một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đầu tư hiệu quả cho việc khai thác bảo tồn các giá trị tài nguyên du lịch văn hóa, cụ thể là: điều tra, đánh giá, phân loại tài nguyên du lịch văn hóa và đánh giá hiện trạng khai thác sử dụng tài nguyên du lịch văn hóa; quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch và đầu tư khai thác tài nguyên cho phát triển du lịch văn hóa; khuyến khích cộng đồng dân cư tham gia vào việc khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên; xử lý nghiêm các hoạt động đầu tư sai mục đích đối với nguồn tài nguyên du lịch văn hóa.
Hai là, bảo đảm nguyên tắc phát triển du lịch bền vững nói chung và du lịch văn hóa nói riêng ‘‘khai thác đi đôi với bảo tồn giá trị tài nguyên du lịch’’, cụ thể là: nâng cao nhận thức của các cấp, ngành và toàn xã hội về vai trò của phát triển du lịch văn hóa đối với bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc; đánh giá tác động môi trường tại các điểm di tích và đưa ra các giải pháp giảm thiểu đối với các dự án, đề án liên quan đến khai thác các nguồn tài nguyên du lịch văn hóa; tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật trong bảo tồn và tôn tạo tài nguyên để đảm bảo tính nguyên bản và bền vững.
Ba là, tăng cường mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch nhằm mục tiêu phát triển du lịch văn hóa bền vững, cụ thể là: xây dựng, thực hiện các đề án phát triển du lịch và văn hóa; phối hợp xây dựng và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch văn hóa, trong đó cần lưu ý sử dụng nguồn nhân lực văn hóa là hướng dẫn, thuyết minh viên tại chỗ ở các điểm di tích; chia sẻ trách nhiệm bảo tồn và tôn tạo tài nguyên du lịch văn hóa cũng như lợi ích giữa các bên trong quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên du lịch văn hóa; mở rộng và nâng cấp các cơ sở dịch vụ có quy mô, bài bản tại các điểm di tích; tái dựng và khôi phục các lễ hội truyền thống, phong tục tập quán, tín ngưỡng của các địa phương để phục vụ đón khách du lịch, bên cạnh đó cũng nên bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan, hạn chế và quản lý nghiêm các lễ hội đang diễn ra hằng ngày... tránh làm ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia; các chuyên gia, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư cần xem xét, tư vấn, hỗ trợ... tạo điều kiện để du lịch văn hóa phát triển.
Bốn là, đầu tư thích đáng cho bảo tồn, tôn tạo các giá trị văn hóa; đầu tư mới các công trình văn hóa có tầm cỡ, có sức hấp dẫn trường tồn để tham gia phát triển du lịch; lồng ghép nội dung văn hóa trong Chiến lược phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao; phát triển du lịch văn hóa theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, khai thác, phát huy tối ưu những giá trị văn hóa phục vụ du lịch; kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại để làm gia tăng giá trị thụ hưởng du lịch và nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch, trong đó lấy yếu tố văn hóa truyền thống làm lợi thế có tính chiến lược để thu hút khách, cạnh tranh và phát triển du lịch; phát triển du lịch và sản phẩm du lịch theo chiều sâu chất lượng, hiệu quả, có thương hiệu và có sức cạnh tranh; phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế quốc gia về văn hóa coi văn hóa dân tộc là nguồn lực vô cùng quan trọng cho phát triển du lịch; càng khai thác thì càng làm tăng giá trị và qua đó văn hóa dân tộc được tôn vinh; tăng cường sự gắn kết hiệu quả giữa hoạt động văn hóa, nghệ thuật với hoạt động du lịch.
Năm là, tạo sức sống cho di sản văn hóa, phát huy thế mạnh về tài nguyên di sản văn hóa, trong đó lấy du lịch di sản là hướng trọng tâm có tính chất chìa khóa hướng tới mục tiêu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; có những giải pháp hữu hiệu về bảo tồn và phát huy bền vững di sản văn hóa trong phát triển du lịch; xây dựng hệ thống dữ liệu số hóa về di sản văn hóa Việt Nam, ứng dụng công nghệ 4.0 trong quản lý khai thác di sản văn hóa và phát triển du lịch di sản; tăng cường đào tạo kỹ năng thuyết minh và ứng dụng thuyết minh tự động để làm thăng hoa giá trị cho di sản trong hoạt động hướng dẫn du lịch và phát triển sản phẩm du lịch thông minh.
_______________
Tài liệu tham khảo
1. Luật Du lịch, 2017.
2. Luật Di sản văn hóa và Nghị định hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.98.
3. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
4. Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020.
5. Dương Văn Sáu, Quản lý di sản với phát triển du lịch, Giáo trình dành cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng ngành du lịch, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2010.
6. Nghị quyết 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, 2017.
7. Thủ tướng Chính phủ, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, 2013.
8. Tổng cục Du lịch, Tình hình hoạt động của ngành du lịch năm 2016 và triển khai nhiệm vụ trong năm 2017.
9. Hà Văn Siêu, Di sản văn hóa với phát triển du lịch, Hà Nội, 2018.
Tác giả: Nguyễn Anh Tuấn - Lê Hoàng Anh
Nguồn: Tạp chí VHNT số 422, tháng 8-2019