Đấu tranh phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa trong tình hình hiện nay

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “Diễn biến hòa bình” là một nguy cơ của cách mạng Việt Nam. Đấu tranh phòng chống âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một nhiệm vụ cấp bách của cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc, diễn ra quyết liệt trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội; là công cuộc giữ nước của cả hệ thống chính trị và toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, gồm tổng thể hoạt động đối nội, đối ngoại về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, quốc phòng, an ninh... được tiến hành bằng hệ thống giải pháp đồng bộ, khả thi vừa mang tính cấp bách trước mắt, vừa là vấn đề cơ bản, lâu dài; kết hợp giữa phòng ngừa, ngăn chặn và răn đe, trừng trị với việc tạo sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Chính vì thế, phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa cũng là một trong những nhiệm vụ trọng yếu để bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

1. Ý nghĩa của hoạt động đấu tranh phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa

Đấu tranh phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa là một nhiệm vụ quan trọng để bảo vệ và thúc đẩy giá trị văn hóa và tinh thần trong xã hội. Văn hóa không chỉ là di sản văn hóa mà còn là tinh thần của một dân tộc. Nó thể hiện nhận thức, giá trị và bản sắc của một cộng đồng, một đất nước. Do đó, bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa là việc làm cần thiết để duy trì danh tính và sự đoàn kết, tinh thần yêu nước của một quốc gia. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Chính vì vậy, bảo vệ giá trị văn hóa cũng là cách bảo vệ nền tảng tư tưởng, tinh thần cho xã hội, giúp giữ gìn chủ quyền lãnh thổ quốc gia ở khía cạnh tinh thần. Muốn vậy, về phương diện lý luận, chúng ta cần quán triệt quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình”, đặc biệt là Chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí thư ngày 17-4-2009 về tăng cường cuộc đấu tranh chống diễn biến âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng, và Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Âm mưu “Diễn biến hòa bình” là sự xâm phạm vào văn hóa của một quốc gia thông qua các phương tiện truyền thông, công nghệ thông tin và sự thâm nhập văn hóa từ các nước khác. Mục tiêu của âm mưu này thường là làm xói mòn giá trị văn hóa, lối sống truyền thống và thay thế chúng bằng giá trị và phong cách từ các nước khác. Để đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình”, chúng ta cần nhấn mạnh đến tăng cường giáo dục và nhận thức về giá trị văn hóa và tình yêu quê hương trong cộng đồng. Điều này có thể thực hiện thông qua việc giảng dạy lịch sử, ngôn ngữ và truyền thống văn hóa.

Đấu tranh phòng chống âm mưu này không đồng nghĩa với việc tách biệt hoặc kỳ thị người khác, cộng đồng này với cộng đồng khác. Thay vào đó, chúng ta cần xây dựng sự đoàn kết và tôn trọng đa dạng văn hóa, tôn trọng quyền tự quyết của mỗi quốc gia trong việc bảo vệ và phát triển văn hóa riêng của các cộng đồng. Vì thế, Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách văn hóa để bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp, khơi dậy khát vọng phát triển phồn vinh cho dân tộc.

Âm mưu “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam hiện nay được biểu hiện thông qua một số dấu hiệu và hình thức, đòi hỏi cần có sự xử lý thỏa đáng.

Thứ nhất, sự gia tăng mạnh mẽ của phương tiện truyền thông, internet và các nền tảng truyền thông xã hội đã làm cho nhân dân Việt Nam tiếp cận văn hóa nước ngoài dễ dàng hơn. Tuy nhiên, sự thâm nhập của văn hóa này không phải lúc nào cũng cân đối và thường xuyên ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị văn hóa và truyền thống Việt Nam. Hiện tượng xâm lăng văn hóa, nhập siêu văn hóa đang để lại nhiều hệ lụy cho sự phát triển văn hóa dân tộc nói chung, nhân cách, đạo đức của con người Việt Nam nói riêng.

Thứ hai, văn hóa tiêu dùng, đặc biệt là sản phẩm văn hóa, nghệ thuật nước ngoài, đang trở nên phổ biến hơn, dẫn đến việc những giá trị, phong cách sống và thẩm mỹ nước ngoài trở nên thịnh hành, đặc biệt trong giới trẻ. Khi người tiêu dùng chú trọng vào sản phẩm văn hóa, nghệ thuật nước ngoài sẽ dẫn đến nguy cơ mất đi sự đa dạng và độc đáo của các truyền thống, giá trị và phong tục văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, qua việc theo đuổi các tiêu chuẩn văn hóa nghệ thuật nước ngoài sẽ tạo ra áp lực xã hội đối với các cá nhân cũng như các nhóm về việc phải tuân theo các tiêu chuẩn đó, ảnh hưởng đến các biểu đạt đa dạng của văn hóa, nghệ thuật, trong đó có văn hóa, nghệ thuật truyền thống dân tộc bị ép so sánh với văn hóa nước ngoài. Hơn thế, việc quảng cáo và tiếp thị mạnh mẽ văn hóa, nghệ thuật nước ngoài gây ra mất cân bằng trong thị trường văn hóa, giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật Việt Nam.

Thứ ba, các phương tiện truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội và trang web video, được sử dụng để phổ biến văn hóa và quảng cáo các giá trị nước ngoài một cách không cân đối, có thể tạo ra ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị và văn hóa truyền thống của đất nước ta. Các nền văn hóa nước ngoài thường được quảng cáo và phổ biến một cách quá mức, nhất là trong giới trẻ, tương lai của dân tộc, so với văn hóa truyền thống của Việt Nam. Do sự hiện diện mạnh mẽ của nền văn hóa phương Tây trong các nền văn hóa truyền thông toàn cầu nói chung, văn hóa Việt Nam nói riêng, dẫn đến sự áp đặt khiên cưỡng lên các giá trị và thực tiễn văn hóa của đất nước ta. Không những thế, điều này còn là nguyên nhân của xu hướng đồng nhất hóa văn hóa, làm mất đi tính độc đáo, đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam.

Bên cạnh đó, trên mạng xã hội và các trang web, thông tin có thể được chia sẻ một cách không kiểm soát, không chính xác hoặc thậm chí là tiêu cực đối với văn hóa và giá trị truyền thống của Việt Nam. Thực tế, tin giả, thông tin xấu, độc thường có xu hướng lan truyền nhanh hơn tin chính thống từ các phương tiện truyền thông. Các nền tảng mạng xã hội có lượng người sử dụng lớn như Facebook, YouTube, TikTok, Zalo... đang là môi trường phổ biến nhất mà nhiều đối tượng xấu lợi dụng phát tán tin giả, thông tin xấu, độc. Các thế lực thù địch, phản động không ngừng đẩy mạnh tuyên truyền, cổ xúy du nhập rao giảng, đề cao tư tưởng phương Tây, khoác áo “khách quan học thuật”, “văn hóa, văn minh” để quảng bá về cái gọi là “các giá trị phương Tây”. Điều này có thể gây ra sự hiểu lầm không mong muốn về văn hóa Việt Nam. Ngoài ra, văn hóa nước ngoài thường được thể hiện trong các nội dung truyền thông như một tiêu chuẩn hoặc một cái nhìn lý tưởng, biểu hiện tràn lan này của văn hóa nước ngoài có thể tạo ra một áp lực bắt chước trong những người hâm mộ, dễ dẫn đến việc không coi trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Thứ tư, sự thay đổi trong thị trường giải trí và nghệ thuật đã thúc đẩy xu hướng nhập khẩu nghệ thuật và sản phẩm giải trí từ nước ngoài, làm giảm sự phát triển và thúc đẩy văn hóa địa phương. Điều đó bắt nguồn từ sự cạnh tranh gay gắt trong ngành giải trí khiến các doanh nghiệp và nghệ sĩ luôn cảm thấy áp lực để sản xuất và tiếp thị các sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế hoặc theo xu hướng thị trường, dẫn đến việc ưu tiên nhập khẩu các nội dung và sản phẩm giải trí từ nước ngoài thay vì tạo ra và phát triển văn hóa trong nước. Đồng thời, điều này cũng xuất phát từ sức hút của nghệ sĩ và nội dung nổi tiếng từ nước ngoài, khiến cho các sản phẩm nghệ thuật và giải trí trong nước trở nên ít thu hút hơn. Xu hướng này lại được kích thích bởi sự phát triển của internet và các nền tảng trực tuyến đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và tiêu thụ nội dung giải trí từ nước ngoài. Khán giả Việt Nam có thể dễ dàng truy cập vào các dịch vụ phát trực tuyến như Netflix, YouTube, Spotify, và tiêu thụ các sản phẩm nghệ thuật và giải trí từ các quốc gia khác một cách thuận tiện. Tuy nhiên, theo báo cáo chỉ số văn minh trên không gian mạng (DCI) do Microsoft công bố năm 2021, Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có mức độ văn minh thấp trên không gian mạng (1). Trên các trang mạng xã hội nhiều video clip được sản xuất, truyền bá có nội dung nhảm nhí, phản cảm, xuyên tạc lịch sử, đi ngược lại truyền thống văn hóa và thuần phong mỹ tục, vi phạm pháp luật Việt Nam.

Thứ năm, sự phát triển của tiếng Anh và các ngôn ngữ nước ngoài khác làm thay đổi cách giao tiếp và lối sống của một số người trẻ, có thể dẫn đến sự mất mát ngôn ngữ và giá trị văn hóa truyền thống. Hiện nay, giới trẻ ưu tiên sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp hằng ngày, đặc biệt là trên các nền tảng truyền thông xã hội và trang web quốc tế. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự trong sáng của tiếng Việt. Sự tiếp xúc ngày càng nhiều với văn hóa phương Tây thông qua tiếng Anh và các ngôn ngữ nước ngoài khác có thể làm thay đổi quan điểm, giá trị, và lối sống của người trẻ. Bên cạnh những mặt tích cực, chúng ta cũng có thể lường trước hậu quả là sự lãng quên ngôn ngữ tiếng Việt và văn hóa truyền thống.

Thứ sáu, sự xuất hiện của các sự kiện văn hóa nước ngoài, chẳng hạn như triển lãm nghệ thuật, hội thảo, hoặc buổi biểu diễn của nghệ sĩ nước ngoài, có thể tạo ra sự quyến rũ và hấp dẫn đối với người Việt Nam, nhất là giới trẻ, từ đó tạo điều kiện cho âm mưu “Diễn biến hòa bình” phát triển. Các sự kiện văn hóa nước ngoài mang lại cơ hội cho người Việt Nam được tiếp xúc và giao lưu với các nghệ sĩ, nhà văn, và nhà nghiên cứu văn hóa quốc tế. Bên cạnh những yếu tố tích cực thì việc tạo ra một môi trường thú vị và hấp dẫn, kích thích sự tò mò và hiểu biết về văn hóa nước ngoài, khuyến khích các ý tưởng và phong cách mới, thúc đẩy trao đổi tự do... cũng có ảnh hưởng nhất định đến người dân khi họ chưa được trang bị những kiến thức, kỹ năng vững chắc để đấu tranh lại những quan điểm sai trái, không phù hợp với bối cảnh và sự phát triển đất nước ta hiện nay.

2. Một số biểu hiện của ảnh hưởng “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa

“Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa có những biểu hiện cụ thể. Về cơ bản, đó là việc chuyển hóa văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo quỹ đạo và các giá trị không phù hợp của phương Tây, từ đó làm biến đổi theo chiều hướng tiêu cực và tha hóa con người, dẫn tới biến chất xã hội.

Biểu hiện của âm mưu “Diễn biến hòa bình” có thể được thể hiện qua việc một số tổ chức phản động trong và ngoài nước cố gắng tác động đến nhận thức, quan điểm và giá trị văn hóa của người dân thông qua các phương tiện truyền thông để phổ biến các giá trị và ý kiến trái chiều, phản động. Cũng có thể biểu hiện qua việc các tổ chức hoặc cá nhân tài trợ cho các dự án văn hóa, triển lãm, hoặc sự kiện nghệ thuật tại Việt Nam với mục tiêu tạo ra ảnh hưởng hoặc thay đổi tiêu cực trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật của đất nước. Các tổ chức nghiên cứu và giáo dục nước ngoài có thể hợp tác với Việt Nam để thúc đẩy các chương trình và nghiên cứu về văn hóa, giáo dục, lịch sử theo hướng gây ảnh hưởng xấu đến nhận thức, quan điểm và văn hóa của người dân Việt Nam.

Bên cạnh đó, với sự phát triển của mạng xã hội và internet, các tổ chức, cá nhân có quan điểm, ý kiến trái chiều, thù địch biến mạng xã hội trở thành một công cụ đắc lực để tác động đến nhận thức, ý kiến và định hướng giá trị của người dân, lan truyền thông điệp tiêu cực về văn hóa, từ đó ảnh hưởng đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Theo số liệu thống kê của tổ chức Internet World Stats, Việt Nam là quốc gia có lượng người sử dụng internet cao thứ 14 trên thế giới và đứng thứ 8 trong tổng số 35 quốc gia, vùng lãnh thổ khu vực châu Á; có hơn 72,1 triệu người dùng internet, tương ứng với 73,2% dân số cả nước (2). Internet và truyền thông xã hội đã làm xuất hiện những lệch lạc văn hóa, biểu hiện ở hiện tượng “sùng ngoại” và “lai căng” văn hóa, ảnh hưởng không nhỏ đến định hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến thời kỳ hội nhập. “Nó như những virus “văn hóa độc hại” lây lan, tác động đến con người và xã hội Việt Nam, cổ súy cho lối sống dân chủ, thể chế chính trị tư sản phương Tây. Lợi dụng sự phát triển của internet, mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên tuyên truyền, đăng tải những sản phẩm văn hóa xấu, độc. Qua đó, cổ vũ cho tạo tư tưởng thực dụng, suy nghĩ ích kỷ, lối sống không lành mạnh, coi trọng vật chất, quen hưởng thụ ở một bộ phận thanh niên. Nó hình thành ở số ít thanh niên thái độ thờ ơ, bàng quan với những biểu hiện sai trái trong cuộc sống, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không lên án; thái độ vô cảm về chính trị, thiếu trách nhiệm với cộng đồng.

Ngoài ra, quan hệ quốc tế và hợp tác đa phương có thể là một phương tiện để tác động đến lĩnh vực văn hóa. Việc tham gia vào các tổ chức quốc tế và thỏa thuận về văn hóa có thể đưa vào nước ta các yếu tố văn hóa mới, không phù hợp, thậm chí đi ngược lại thuần phong mỹ tục của dân tộc, gây ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Những biểu hiện “sùng ngoại”, “lai căng” văn hóa theo khuynh hướng xã hội công nghiệp hiện đại và mặt trái của kinh tế thị trường, như: chủ nghĩa thực dụng, đề cao cá nhân, lối sống hưởng thụ, tôn thờ tiền bạc thái quá, thị hiếu thấp kém đi ngược lại với giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Không chỉ vậy, nó còn làm cho những giá trị đạo đức cốt lõi bị lung lay, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, lối sống, nhất là của giới trẻ hiện nay, mà còn tạo ra nhiều hệ lụy trong xã hội, làm cho nhiều người dễ dao động, buông xuôi trước sự tấn công của văn hóa ngoại lai xấu độc, gây khủng hoảng niềm tin, mất phương hướng trong lựa chọn các giá trị, lối sống.

Thời gian vừa qua vẫn xuất hiện những biểu hiện của “Diễn biến hòa bình” như: suy đồi, vị kỷ, sùng ngoại trong đạo đức, lối sống. Đặc biệt, với sự phổ biến của các phương tiện truyền thông mới, trong đó có mạng xã hội, khiến cho những lệch lạc trong lối sống như Khá Bảnh, Dương Minh Tuyền... được một bộ phận giới trẻ quan tâm, cổ vũ. Tệ nạn mê tín dị đoan, lợi dụng tín ngưỡng, tâm linh, ngoại cảm để trục lợi, các hủ tục cũ, mới tràn lan, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội… có chiều hướng gia tăng. Trong xã hội còn xuất hiện những biểu hiện tiêu cực như việc cưới vẫn còn hiện tượng ăn uống linh đình, việc tang kéo dài, việc phúng viếng bằng vòng hoa, đối trướng đắt tiền, việc xây mồ mả, lăng bia tốn kém tiền của vẫn diễn ra ở nhóm cán bộ, công chức và một bộ phận người giàu có. Trong sáng tác, biểu diễn, phổ biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật còn không ít tác phẩm chưa thể hiện được tính chất tiên tiến và bản sắc dân tộc. Dù số lượng tác phẩm văn học, nghệ thuật xuất hiện ngày một nhiều, song, còn ít tác phẩm có giá trị cao, tương xứng với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc và thành tựu của công cuộc đổi mới. Hay như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu thẳng thắn là: “Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người” (3). Trong một số tác phẩm, lý tưởng xã hội, thẩm mỹ không rõ nét. Một số tác phẩm có nội dung tư tưởng lệch lạc, thiên về khai thác những mặt tiêu cực, thậm chí phủ nhận quá khứ hào hùng của dân tộc, xuyên tạc sự thật lịch sử. Không ít tác phẩm còn thể hiện sự dễ dãi, chiều theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận công chúng. Một bộ phận văn nghệ sĩ tỏ ra lúng túng trong tiếp cận và nhận thức về những biến đổi và những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống hiện đại, lệch lạc trong khuynh hướng sáng tác và biểu diễn. Một số tác phẩm và sản phẩm có biểu hiện bắt chước, mô phỏng, chạy theo hình thức và các thủ pháp mới, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Giáo dục, định hướng thẩm mỹ cho giới trẻ chưa được quan tâm đúng mức; chưa chủ động hướng dẫn dư luận xã hội. Tình trạng nghiệp dư hóa các hoạt động văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp có chiều hướng tăng lên. Sáng tác kiến trúc trong thời gian dài không rõ định hướng, lúng túng trong việc thể hiện bản sắc truyền thống trong công trình kiến trúc hiện đại Việt Nam, tạo nên tình trạng lai tạp, lộn xộn trong bộ mặt kiến trúc đô thị hiện nay.

Chính vì thế, văn hóa được Đảng và Nhà nước xác định là lĩnh vực quan trọng trong công tác đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình”. Trong đó, xây dựng đạo đức, lối sống con người Việt Nam, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ Đảng viên, là một trong những nội dung thiết yếu được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh trong Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021: “chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (4) .

3. Các hoạt động đấu tranh phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực văn hóa hiện nay

Xây dựng đạo đức, lối sống con người Việt Nam là một trong những nội dung quan trọng nhằm phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình”. Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác xây dựng đạo đức, lối sống như: Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 12-1-1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; Chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí thư ngày 17-4-2009 về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa; Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 của Ban Bí thư về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại, gây hủy hoại đạo đức xã hội; Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Ban Bí thư về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, và Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới… Trong đó, đặc biệt, năm 2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó xác định sự suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống là bước chuyển trực tiếp đến “diễn biến hòa bình”, làm “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII), Đảng ta nhấn mạnh: Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì thế, để bảo vệ nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng, việc tăng cường đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng là đòi hỏi khách quan, nhiệm vụ cấp bách trước mắt, đồng thời cũng là nhiệm vụ thường xuyên, cơ bản, lâu dài.

Việc chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân dễ dàng tự soi và soi rọi vào người khác. Qua đó, góp phần đấu tranh, phòng chống đúng đối tượng, có trọng tâm, trọng điểm, tránh chung chung. Hệ quả là thành tích của cá nhân, còn khuyết điểm là của tập thể. Đây là một thực trạng khiến sự vi phạm của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, ảnh hưởng đến lòng tin của người dân vào đội ngũ công bộc của mình. Đây cũng là điểm cơ bản mà các thế lực thù địch dựa vào để bôi nhọ, nói xấu chế độ ta. 

Để đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hòa bình”, trên cơ sở các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng đạo đức, lối sống con người Việt Nam, Bộ VHTTDL đã chủ động trong công tác tham mưu và ban hành, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật như: tham mưu trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 29-3-2017 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình; Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 9-2-2018 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang; Nghị định số 110/2018/NĐ-CP ngày 29-9-2018 quy định về quản lý và tổ chức lễ hội; Nghị định số 122/2018/NĐ-CP ngày 17-9-2018 quy định về xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”; Thông tư số 01/2012/TT-BVHTTDL ngày 18-1-2012 của Bộ VHTTDL quy định chi tiết tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục, xét và công nhận “Cơ quan đạt chuẩn văn hóa”, “Đơn vị đạt chuẩn văn hóa”, “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa”; Thông tư số 02/2013/TT-BVHTTDL ngày 24-1-2013 của Bộ VHTTDL quy định chi tiết tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét, công nhân “Phường đạt chuẩn văn minh đô thị”, “Thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”.

(còn nữa)

_________________

1. Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin điện tử - Bộ Thông tin và Truyền thông, Giải pháp phát triển văn hóa, hành vi ứng xử trên mạng xã hội tại Việt Nam, nhandan.vn, 17-12-2022.

2. Nguyễn Thị Trang, Các phương tiện truyền thông xã hội và những thách thức đối với an ninh tư tưởng ở nước ta hiện nay, tuyengiao.vn, 10-1-2023.

3, 4. Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhandan.vn, 24-11-2021.

PGS, TS BÙI HOÀI SƠN - NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN

Nguồn: Tạp chí VHNT số 566, tháng 4-2024

;