Quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay

Bác Hồ với Giáo sư Trần Đại Nghĩa - một trong những nhân tài được Người phát hiện và trọng dụng - Ảnh tư liệu: Trang Thông tin điện tử Hồ Chí Minh

1. Nhận thức lý luận của Đảng về trí thức

Thuật ngữ trí thức có nguồn gốc từ tiếng La tinh: intelligentia - intelligentia (được hiểu là trí lực, trí thức); có nghĩa là thông minh, hiểu biết. Sinh thời, Mác và Ăngghen đã nghiên cứu về con người, coi con người là động vật - xã hội đã được tiến hóa ở mức cao nhất trên trái đất. Hai ông đã phát hiện ra con người vừa là một thực thể tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội, biết tự nhận thức về mình, có khả năng làm chủ tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình. Con người vừa là chủ thể của nhận thức, vừa là khách thể của nhận thức. Từ những nghiên cứu về con người nói trên, Mác và Ăngghen cho rằng giới trí thức là nhóm người với sự phát triển đặc biệt về khả năng trí não, có “thuộc tính chung của những sinh vật có trí tuệ” (1) sẽ tham gia vào các tiến trình của tiến bộ xã hội.

Theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin, trong xã hội sẽ có hai hình thức lao động là sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần: “Phân công lao động chỉ trở thành sự phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự phân chia thành lao động vật chất và lao động tinh thần” (2). Người trí thức sẽ tham gia sản xuất tinh thần (tức là sáng tạo về mặt tinh thần). Tuy nhiên, người trí thức cần được giác ngộ lập trường của giai cấp công nhân để có cái nhìn đúng đắn về vận động của lịch sử và lao động trí óc cần phải được coi trọng đúng mức trong sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về trí thức, Đảng ta mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm lý luận về đội ngũ trí thức. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã nêu rõ trí thức là những người “lao động trí óc”. Người viết: “Lao động trí óc là ai? Là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, văn nghệ, những người làm bàn giấy (...). Chúng ta có quyền tự hào rằng: Những người lao động trí óc ở Việt Nam đều đứng trong hàng ngũ kháng chiến” (3). Như vậy, đội ngũ trí thức là những người lao động trí óc - một hình thức lao động đặc biệt, sẽ kết hợp cùng với các hình thức lao động khác sáng tạo nên mọi của cải để đáp ứng nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người và xã hội.

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn quan tâm đặc biệt đến đội ngũ trí thức cùng với nông dân và công nhân là lực lượng của cách mạng. Tuyên ngôn của Đảng: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất” và: “Lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng” (4). Trí thức chính là một tầng lớp xã hội đặc biệt, chuyên lao động trí óc phức tạp, có học vấn, có trình độ chuyên môn sâu, đại diện cho tinh hoa trí tuệ của thời đại. Đội ngũ trí thức là những người liên tục hoạt động sáng tạo, phổ biến và vận dụng mọi tri thức khoa học vào đời sống xã hội, tích cực góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

Tuy nhiên, một người có trình độ học vấn cao chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để trở thành trí thức chân chính. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí thức chân chính phải là người biết vận dụng tri thức của mình phục vụ cuộc sống, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Người viết: “Một người học xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại, công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải biết đem trí thức đó áp dụng vào thực tế” (5). Như vậy, một người có trình độ học vấn cao chỉ có thể trở thành trí thức khi người đó đem tri thức của mình để lao động sáng tạo, áp dụng vào thực tế xã hội phục vụ đất nước và nhân dân, có ích cho cuộc sống. Tài phải đi đôi với đức. Bởi lẽ: “Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng” (6). Do đó, nếu suy yếu về đạo đức, lương tri thì dù có học cao tột bậc cũng chỉ là người sở hữu bằng cấp và có thể chỉ là người làm việc trí óc thuần túy mà thôi và chưa xứng đáng được coi là trí thức chân chính. Trên thực tế, để trở thành người trí thức chân chính thì trước tiên phải có năng lực nghiên cứu, giảng dạy, sáng chế, phát minh khoa học, phấn đấu vươn lên xứng đáng với học vị, học hàm do nhà nước phong tặng, đồng thời lại phải có phẩm chất đạo đức cách mạng, phải trở thành người có ích cho dân, cho nước, luôn luôn đem hiểu biết, tri thức khoa học để phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển quốc gia, dân tộc, tích cực đóng góp cho sự phát triển chung của nhân loại.

2. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong tiến trình cách mạng Việt Nam

Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin về trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong xã hội chủ nghĩa. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người nêu rõ: “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó không có trí thức nào khác” (7).

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với các đại biểu dự Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 - Ảnh: Trần Huấn

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò quan trọng của trí thức đối với sự nghiệp xây dựng đất nước: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm, nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển, càng thêm nhiều” (8). Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn nhận thức sâu sắc về vai trò quan trọng của trí thức như sau: “Trí thức là một vốn quý của dân tộc. Không có trí thức hợp tác với công nông thì cách mạng không thể thành công và sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam mới sẽ không hoàn thành được” (9). Trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta tiến hành các cuộc kháng chiến chống lại các thế lực ngoại xâm và bọn tay sai bán nước, giải phóng miền Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà, Đảng ta mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng thực hiện: “Đào tạo trí thức mới, cải tạo trí thức cũ, công nông trí thức hóa, trí thức công nông hóa. Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ tri thức của mình, trí thức cần gần gũi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm của công nông…” (10), cho nên đã xây dựng được một đội ngũ trí thức đông đảo có tâm huyết với cách mạng, có năng lực sáng tạo, phát minh, sáng chế, tiếp thu nhanh khoa học và công nghệ mới. Từ đó, góp phần xây dựng được khối liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức bền vững, trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, nền tảng cho nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Bước vào thời kỳ đổi mới, tiến hành đẩy mạnh CNH-HĐH, hướng tới xây dựng một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng ta rất coi trọng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khối liên minh công nông và đội ngũ trí thức, theo đó là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế tri thức để có thể hội nhập với khu vực và thế giới, thích ứng với xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra rộng khắp hành tinh. Phải nói rằng, trong thời đại bão táp về cách mạng khoa học kỹ thuật và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, vai trò và sức ảnh hưởng của trí thức ngày càng trở nên quan trọng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX của Đảng và các Nghị quyết Trung ương tiếp tục làm rõ và cụ thể hóa hơn nữa việc xây dựng, đào tạo, sử dụng và phát huy tiềm năng của giới trí thức nói chung và đội ngũ trí thức ở các lĩnh vực cụ thể nói riêng. Tại Đại hội X, Đảng ta nêu rõ quan điểm về người trí thức: “Đối với trí thức, phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn phản biện của các hội đồng khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…” (11).

Trong sự nghiệp đẩy mạnh công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc về vai trò sáng tạo, phát minh và phản biện xã hội của tầng lớp trí thức. Trên cơ sở đó, tầng lớp trí thức nước ta đã có nhiều đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới vĩ đại trên đất nước, tạo điều kiện để Việt Nam ngang tầm thời đại, tiến bước vào thiên niên kỷ mới.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” nêu rõ: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” (12). Để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, thực hiện chuyển đổi số (xây dựng quốc gia số, chính phủ số, kinh tế số, văn hóa số, công dân số), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định yêu cầu cần phải tiếp tục: “…Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thực sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức…” (13).

3. Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ngành VHTTDL trong tình hình mới

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6-8-2008, của Hội nghị Trung ương 7, khóa X Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã khẳng định: “Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển…” (14).

Nhằm mục đích chấn hưng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa, con người là sức mạnh nội sinh, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững, kiến tạo nên hệ giá trị nền văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam, hệ giá trị gia đình và hệ giá trị quốc gia Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, vấn đề xây dựng hệ thống lý luận văn hóa đương đại đang cần thiết và cấp bách hiện nay. Đội ngũ trí thức ngành VHTTDL là chủ thể giữ vai trò quan trọng trong xây dựng hệ thống lý luận văn hóa và phát triển nền văn hóa của dân tộc trong thời đại mới. Việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, kế thừa, tổng hợp, sáng tạo, xây dựng hệ thống lý luận văn hóa Việt Nam đương đại chính là nhiệm vụ quan trọng và sứ mệnh cao cả của đội ngũ trí thức cả nước, trong đó trách nhiệm chính thuộc về trí thức ngành VHTTDL.

Bằng lao động nghiên cứu, sáng tạo trực tiếp trong lĩnh vực VHTTDL, đội ngũ trí thức sẽ tiếp tục tìm tòi, phát hiện, đổi mới, sáng tạo, bổ sung, xây dựng, hình thành nên hệ thống các khái niệm liên quan, các quy luật cơ bản, các phạm trù, tính chất, đặc trưng của VHTTDL trong tình hình mới, đồng thời tiếp tục nhận diện, phân tích, tổng hợp, khái quát thực tiễn phát triển văn hóa, con người trong thời gian qua, đúc rút thành hệ thống tri thức lý luận mới, khung lý thuyết mới về phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện nay.

Trên thực tế, hệ thống tri thức khoa học mới về xây dựng và phát triển VHTTDL đã được đội ngũ trí thức cả nước (mà trí thức của ngành VHTTDL đóng vai trò lực lượng nòng cốt chủ yếu) tích cực nghiên cứu, đề xuất, đóng góp xây dựng quan điểm, đường lối của Đảng trên lĩnh vực VHTTDL, nêu lên các vấn đề trở thành những định hướng lớn, những nhiệm vụ chiến lược trong phát triển văn hóa, con người. Chẳng hạn như: khẳng định quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội; văn hóa, con người phải là sức mạnh nội sinh trong phát triển nhanh và bền vững đất nước, vấn đề gia tăng sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, hình thành thị trường các sản phẩm và dịch vụ văn hóa ở nước ta thời gian qua…

Bản chất của văn hóa là hoạt động sáng tạo liên tục, không ngừng nghỉ của con người, hình thành những giá trị nhân văn cao đẹp, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của sự sinh tồn và phát triển của quốc gia, dân tộc. Đội ngũ trí thức VHTTDL là lực lượng nòng cốt, tiên phong, trực tiếp gắn bó với thực tiễn nghiên cứu của ngành, ngày đêm tìm tòi, phát hiện, khai thác, bảo tồn hệ thống di sản văn hóa dân tộc, khám phá, sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới, tích cực góp phần tạo nên những đỉnh cao văn hóa của dân tộc.

 Trong lĩnh vực sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật, vừa qua, hàng trăm tác giả, tác phẩm, công trình nghiên cứu đã được Đảng, Nhà nước ta tôn vinh bằng các giải thưởng cao quý như: Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước dành cho những văn nghệ sĩ, trí thức, nhà nghiên cứu đã có những cống hiến quan trọng đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật nước nhà, được dư luận quần chúng nhân dân yêu mến, ủng hộ. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức ngành VHTTDL không chỉ là chủ thể trực tiếp nghiên cứu, sáng tạo văn hóa, mà còn là chủ thể thụ hưởng, thẩm định, phê bình, đánh giá, tiêu dùng các sản phẩm văn hóa, trực tiếp thực hành, biểu diễn, lan tỏa các sản phẩm và giá trị văn hóa, qua đó tích cực góp phần tạo nên động lực mạnh mẽ cho hoạt động đổi mới, sáng tạo, xây dựng, quảng bá giá trị văn hóa mới của đất nước.

Nhằm mục đích tiếp tục phát triển đội ngũ trí thức ngành VHTTDL, đáp ứng yêu cầu phát triển VHTTDL trên phạm vi cả nước, ngày 7-12-2021, Bộ VHTTDL đã tổ chức Hội thảo Lấy ý kiến Dự thảo Đề án “Xây dựng đội ngũ trí thức ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến năm 2030”. Có thể nói, đây là một Đề án nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nòng cốt của ngành VHTTDL, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Với lực lượng hùng hậu, phát triển toàn diện, đội ngũ trí thức ngành VHTTDL sẽ đóng góp to lớn vào quá trình thực hiện mục tiêu phát triển trong giai đoạn thực hiện Chiến lược phát triển Văn hóa đến năm 2030, Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045 và định hướng phát triển thể thao trong giai đoạn tới.

4. Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức theo tinh thần Nghị quyết 45-NQ/TW của Đảng

Trước yêu cầu xây dựng, phát triển nhanh và bền vững đất nước trong tình hình mới theo tinh thần Đại hội XIII, ngày 24-11-2023, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết 45-NQ/TW Về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, trong đó xác định rõ quan điểm: “Đội ngũ trí thức là lực lượng lao động trí óc, có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu về một lĩnh vực, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo; giàu lòng yêu nước, có đạo đức và lý tưởng cách mạng, gắn bó với Đảng, Nhà nước và dân tộc (…) là nhân tố quan trọng trong nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Với tầm nhìn đến năm 2045, dự kiến trong thời điểm đó sẽ đạt được kết quả là: “Đội ngũ trí thức Việt Nam lớn mạnh, có chất lượng cao, cơ cấu hợp lý, thuộc tốp đầu khu vực và tiệm cận với các nước phát triển; nhiều nhà khoa học có ảnh hưởng trên thế giới, đạt các giải thưởng quốc tế trên các lĩnh vực; nhiều tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở giáo dục và đào tạo đạt chuẩn quốc tế đáp ứng yêu cầu của quốc gia phát triển…” (15).

Nghị quyết 45-NQ/TW đã thể hiện rõ giá trị lý luận và thực tiễn cập nhật cùng với tầm nhìn thời đại về chiến lược phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 và thời kỳ chuyển đổi số, phát triển nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin để tạo động lực phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đó là yêu cầu khách quan của thời đại, là những đòi hỏi cấp bách từ thực tiễn, cần xác định tư duy và tầm nhìn chiến lược để có những cách thức, con đường khoa học, hợp lý trong việc phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc, trong đó có việc phát triển và phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước là đội ngũ trí thức Việt Nam hiện đại của TK XXI với tư duy thời đại 4.0. và 5.0 ngang tầm với khu vực, quốc tế, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trên tầm cao mới của thời đại.

Nghị quyết 45-NQ/TW cũng đưa ra hệ thống nhiệm vụ và giải pháp cơ bản để tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới như: tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức; đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, trọng dụng nhân tài; tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức; tăng cường nguồn lực xây dựng đội ngũ trí thức chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động các hội trí thức.

Trong các nhiệm vụ và giải pháp trên, việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, trọng dụng nhân tài là nhiệm vụ và giải pháp mang ý nghĩa thời sự, cập nhật cần được đặc biệt chú trọng triển khai thực hiện để giải quyết các vấn đề bức xúc đang đặt ra từ thực tiễn. Đó là giải pháp căn cơ, cần thực hiện ngay trong bối cảnh hiện nay để thực sự xây dựng được đội ngũ trí thức, tạo động lực phát triển và thực thi tài năng của trí thức nước nhà. Người trí thức khi được đãi ngộ, trọng dụng và tôn vinh xứng đáng sẽ có động lực mạnh mẽ để phát triển tài năng và thực hiện nguyện vọng cống hiến tri thức, trí tuệ, tích cực đóng góp xây dựng, phát triển đất nước. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với đội ngũ trí thức và tăng cường nguồn lực xây dựng đội ngũ trí thức chủ động, tích cực hội nhập quốc tế khi được thực hiện sẽ là điều kiện cơ bản để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức nước ta theo những chuẩn mực mới của thời đại, trong đó có chuẩn mực quốc gia và chuẩn mực quốc tế để tự tin và tích cực hội nhập quốc tế, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới.

5. Kết luận

Chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm tới đội ngũ trí thức và đánh giá cao vị trí, vai trò, tầm ảnh hưởng của trí thức trong đời sống xã hội cũng như trong sự nghiệp cách mạng. Trải qua lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tế cho thấy: dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ trí thức nước ta luôn gắn bó trong khối đại đoàn kết của dân tộc, đã có nhiều cống hiến to lớn về mọi mặt, tích cực góp phần cho những thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Nhìn lại chặng đường hơn 36 năm đổi mới, đội ngũ trí thức nước nhà đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường cách mạng đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tháo gỡ và giải đáp những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống; tích cực tham gia đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và nâng cao dân trí; từng bước phát triển khoa học và công nghệ của đất nước, nhanh chóng vươn lên tiếp cận với trình độ khu vực và thế giới, góp phần quan trọng vào những thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp đổi mới.

Do vậy, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, nhằm mục đích tiếp tục phát huy sức mạnh của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ để quyết tâm chấn hưng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa không chỉ đòi hỏi có phẩm chất chính trị mà còn phải có trình độ chuyên môn, am hiểu đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, có tầm nhìn sâu rộng, có khả năng vận động và thuyết phục các tầng lớp nhân dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa. Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ làm công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật. Đội ngũ này có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp văn hóa nói riêng và trong sự nghiệp cách mạng nói chung” (16). Đây là một trong những giải pháp quan trọng, then chốt để hiện thực hóa đường lối cách mạng của Đảng, đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống, tiếp tục xây dựng và phát triển nước Việt Nam thịnh vượng và hùng cường, đem hạnh phúc đến cho nhân dân.

________________

1. Dẫn theo Phạm Duy Đức (chủ biên), Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2008, tr.183.

2. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.45.

3, 4, 10. Hồ Chí Minh, Đảng Lao động Việt Nam với lao động trí óc, Báo Nhân Dân, số 6, ngày 1-5-1951.

5, 7. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.235.

6. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.329.

8. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.99.

9. Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam đối với trí thức, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1957, tr.8.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2006, tr.119.

12, 14. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 27-NQ/TW về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 6-8-2008.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.167.

15. Nghị quyết 45-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới, ngày 24-11-2023.

16. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.174.

PGS, TS NGUYỄN TOÀN THẮNG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 560, tháng 2-2024

;