Nhận diện sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam và một số đề xuất giải pháp chính sách

Du lịch văn hóa là một trong các ngành công nghiệp văn hóa được chú trọng - trong ảnh: Du lịch hồ thủy điện Na Hang (Tuyên Quang) - Ảnh: Nguyễn Thanh Hà

1. Nhận diện sự chuyển động của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam từ năm 2016 đến nay

Các ngành công nghiệp văn hóa (CNVH) đã có sự chuyển động tích cực và từng bước hội nhập quốc tế theo hướng bền vững

Các ngành CNVH đã đóng góp trực tiếp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (gọi tắt là Chiến lược) được ban hành vào năm 2016. Sau 7 năm, Chiến lược đã cho thấy, những tác động chính sách đã tạo nên sự chuyển động tích cực của các ngành CNVH Việt Nam.

Nếu năm 2015, các ngành CNVH đóng góp 2,68% GDP, sau 3 năm triển khai Chiến lược, 12 ngành CNVH đóng góp doanh thu khoảng 3,61% với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2018 (1). Nếu như trước khi ban hành Chiến lược, chúng ta gặp nhiều khó khăn trong công tác thống kê, thì đến nay, sự phối hợp chặt chẽ của Tổng cục Thống kê đã bước đầu khẳng định, giá trị tăng thêm (giá hiện hành) của các ngành CNVH đóng góp vào nền kinh tế năm 2018 ước đạt 5,82%; đến năm 2019 ước đạt 6,02%; năm 2020 và 2021 do ảnh hưởng của đại dịch nên số liệu có sự sụt giảm chỉ còn khoảng 4,32% và 3,92%; đến năm 2022 các ngành đã bắt đầu phục hồi và giá trị đóng góp có sự tăng trưởng ước đạt 4,04%. Giá trị sản xuất của các ngành CNVH Việt Nam giai đoạn 2018-2022 đóng góp ước đạt 1,059 triệu tỷ đồng (44 tỷ USD). Giai đoạn 2018-2022, bình quân 5 năm tốc độ tăng trưởng về số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành CNVH đạt 7,21%/năm; năm 2022 thống kê có khoảng 70.321 cơ sở đang hoạt động có liên quan đến ngành CNVH và bình quân lực lượng lao động thu hút khoảng 1,7 triệu đến 2,3 triệu người, tăng 7,44%/ năm (2).

So sánh số liệu thống kê sau 7 năm triển khai Chiến lược với tình hình chung trên thế giới, có thể thấy, Việt Nam đang là quốc gia tầm trung về phát triển CNVH, các ngành CNVH đã có tỷ lệ giá trị gia tăng cao hơn so với chi phí sản xuất, góp phần tiết kiệm tài nguyên, phát huy và kết hợp được các yếu tố tự nhiên, văn hóa, bản sắc dân tộc trong sáng tạo các sản phẩm, dịch vụ văn hóa đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững đất nước.

Trình diễn tại Festival Áo dài Hà Nội - Ảnh: Nguyên Trường

Với đặc trưng sáng tạo và công nghệ, CNVH đang mang đến sự thay đổi cơ cấu của các ngành có liên quan, tiếp đó là sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế. Sự xuất hiện các trung tâm CNVH, các thành phố sáng tạo thuộc mạng lưới UCCN đã và làm thay đổi cơ cấu vùng kinh tế. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng có sự chuyển dịch thích hợp với quá trình chuyển đổi mô hình các đơn vị sự nghiệp văn hóa. Các doanh nghiệp văn hóa, bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Sự thay đổi này đã tạo nên các kết quả đáng ghi nhận ở cả 12 ngành (3). Ví dụ:

Đối với điện ảnh: giai đoạn 2018-2022, điện ảnh có xu hướng phát triển nhanh, giá trị sản xuất tăng bình quân 8,03%, giá trị gia tăng đóng góp vào nền kinh tế tăng bình quân 7,94%, nguồn lực lao động tăng 8,05%, số lượng cơ sở kinh tế hoạt động trong lĩnh vực điện ảnh tăng 8,39% (4).

Du lịch trong đó có du lịch văn hóa là một điểm sáng phục hồi nền kinh tế. Kết quả phục hồi du lịch có tác động lan tỏa tới nhiều lĩnh vực, góp phần cải thiện động lực tăng trưởng của nền kinh tế là đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng. Việt Nam có nhiều giá trị văn hóa truyền thống, đây là giá trị góp phần xây dựng các thương hiệu, sản phẩm và dịch vụ du lịch văn hóa đặc sắc gắn với tìm hiểu văn hóa vùng miền (du lịch di sản văn hóa, du lịch ẩm thực, du lịch về nguồn, du lịch cộng đồng).

Đối với quảng cáo: năm 2022, tốc độ tăng trưởng doanh thu của thị trường quảng cáo Việt Nam năm 2022 đạt 12,7%, đứng thứ 5/11 quốc gia ASEAN, xếp thứ 2/11 quốc gia về tốc độ tăng trưởng (5).

Đối với kiến trúc: giá trị sản xuất bình quân tăng 7,32%, năm 2022; giá trị gia tăng của lĩnh vực kiến trúc bình quân tăng 7,37% (6).

Đối với thiết kế: giá trị gia tăng của lĩnh vực thiết kế theo giá hiện hành giai đoạn 2018-2022 bình quân tăng 6,36 (7). Ngành Thiết kế là lĩnh vực hoạt động có sự giao thoa giữa sáng tạo và công nghệ, khoa học và nghệ thuật, sự cân bằng giữa các yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội. Thiết kế được coi là một ngành công nghiệp mang tính đổi mới sáng tạo và bền vững, đồng thời đóng góp quan trọng trong chuỗi giá trị sản phẩm.

Đối với thời trang: tốc độ tăng trưởng ổn định trong giai đoạn 2018-2022, giá trị sản xuất bình quân tăng 7,36%; giá trị gia tăng của lĩnh vực thời trang trong giai đoạn này bình quân tăng 7,3%. Thời trang tiếp tục trở thành một trong những lĩnh vực phát triển nhanh nhất, với sự gia tăng về sản xuất, xuất khẩu và tiêu thụ trong nước (8).

Đối với phần mềm và các trò chơi giải trí: giai đoạn 2018-2022, giá trị sản xuất bình quân tăng 7,19% và giá trị gia tăng bình quân tăng 7,21%. Ngành công nghiệp phần mềm, dịch vụ công nghệ thông tin có tốc độ phát triển cao, được ghi nhận trên bản đồ công nghệ thông tin thế giới. Xuất khẩu trò chơi điện tử top 9/15 nước lớn nhất thế giới năm 2019 (9).

Đối với thủ công mỹ nghệ: giá trị sản xuất bình quân tăng 11,07%, giá trị gia tăng đóng góp đáng kể vào sự phát triển của các ngành CNVH với mức bình quân tăng 11,25%. Các sản phẩm thủ công của Việt Nam đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ (10).

Việt Nam đang định hình và mở rộng khả năng kết nối quốc tế trong mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO

Trong quá trình triển khai Chiến lược, mục tiêu của Việt Nam là định hình được các trung tâm CNVH theo hướng kết nối toàn cầu thông qua xây dựng 3 trung tâm CNVH là Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM. Ba năm sau, vào ngày 30-10-2019, Hà Nội trở thành thành phố Thiết kế sáng tạo đầu tiên của Việt Nam tham gia vào mạng lưới UCCN. Thành công của Hà Nội đã tạo tiền đề để Chính phủ ban hành Đề án Phát triển mạng lưới thành phố sáng tạo trong hệ thống thành phố sáng tạo của UNESCO vào đầu năm 2023. Đề án đã tạo điều kiện cho các thành phố của Việt Nam có được sự chuẩn bị tốt cho các lựa chọn phát triển CNVH khi gia nhập mạng lưới UCCN. Vào ngày 31-10-2023, Việt Nam có 2 thành phố gia nhập mạng lưới là Đà Lạt - thành phố sáng tạo âm nhạc và Hội An - thành phố thủ công và nghệ thuật dân gian. Sự xuất hiện của 3 thành phố sáng tạo trong mạng lưới UCCN là căn cứ để Việt Nam có thể xác định mục tiêu trong giai đoạn tiếp theo là trở thành trung tâm CNVH thu hút và hội tụ sự sáng tạo tại khu vực Đông Nam Á (11).

Hạn chế chính sách đang giới hạn sức sáng tạo và khả năng hội nhập của các ngành CNVH Việt Nam

Hệ thống pháp luật về CNVH chưa phát huy hiệu quả. Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến các ngành CNVH gồm nhiều loại khác nhau từ luật, pháp lệnh đến thông tư. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, một số lĩnh vực chưa có luật hoặc pháp lệnh điều chỉnh (nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, quyền và nghĩa vụ của văn nghệ sĩ...) thậm chí chưa có văn bản điều chỉnh (quản lý hoạt động trò chơi...). Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý nhà nước về từng lĩnh vực vì mỗi lĩnh vực cần hệ thống chính sách để phát triển. Năng lực dự báo của các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa còn hạn chế. Việc nghiên cứu, xây dựng cơ sở dữ liệu nhằm cung cấp các bằng chứng khoa học cho hoạch định chính sách phát triển các ngành công nghiệp chưa được chú trọng.

Các quy định pháp luật về huy động nguồn lực cho thấy CNVH chưa hoàn toàn là ngành nghề được ưu tiên, khuyến khích phát triển

Hiện nay, một số quy định pháp luật chưa tạo được môi trường pháp lý thuận lợi để văn hóa thực sự ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Các quy định về chính sách thuế trong các luật chuyên ngành chỉ mang tính nguyên tắc về “ưu đãi” đối với lĩnh vực văn hóa trong khi việc áp dụng lại phụ thuộc vào các quy định cụ thể của từng đạo luật về thuế. Luật Đầu tư năm 2020 quy định văn hóa là một trong những ngành, nghề được ưu đãi đầu tư, tuy nhiên chỉ giới hạn trong lĩnh vực hẹp là bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, trong khi văn hóa là lĩnh vực rộng với 9 chuyên ngành và các ngành CNVH bao gồm 12 ngành với sự quản lý của nhiều bộ, ban, ngành khác nhau. Năm 2020, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) nhưng chỉ có 5 lĩnh vực được áp dụng đầu tư theo phương thức PPP, trong đó không có lĩnh vực văn hóa. Như vậy, căn cứ Luật Đầu tư và Luật PPP thì lĩnh vực văn hóa chưa hoàn toàn là ngành, nghề được ưu tiên khuyến khích. Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp quy định thu nhập được miễn thuế đối với các khoản tài trợ nhận được để sử dụng cho các hoạt động giáo dục, nghiên cứu khoa học, văn hóa, nghệ thuật, từ thiện… và phần thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế và lĩnh vực xã hội hóa khác để lại đầu tư phát triển cơ sở đó theo quy định của pháp luật chuyên ngành, nhưng không có lĩnh vực văn hóa. Một số vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn như thẩm định và hậu kiểm thể loại phim sản xuất và phát hành trên internet; phát triển CNVH và sự thích ứng của văn hóa truyền thống trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0... những vấn đề này còn chậm được thể chế hóa thậm chí chưa có văn bản điều chỉnh (gây khó khăn cho công tác quản lý các ngành CNVH trong điều kiện mới ở nước ta hiện nay) (12). Thói quen trông chờ ngân sách nhà nước cho các hoạt động văn hóa vốn đã ăn sâu trong tiềm thức từ thời kinh tế tập trung bao cấp, cùng với quan niệm ngành Văn hóa là ngành “tiêu tiền” đang tạo thêm những rào cản trong nhận thức về đầu tư các nguồn lực cho các ngành CNVH. Mặc khác, hiện nay, nhận thức về lĩnh vực CNVH vừa rộng, có tính liên ngành lại có tính đặc thù nên đòi hỏi nguồn lực đáp ứng có đặc thù riêng như đầu tư cho hỗ trợ sáng tạo, sản xuất các sản phẩm, dịch vụ văn hóa, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng nghệ thuật, phát huy năng khiếu khó đo đếm định lượng, khó chính xác đơn giá, định mức chưa rõ trong quá trình xây dựng, triển khai các chính sách đầu tư, ưu đãi.

Cơ chế chính sách đầu tư chưa tương xứng với vai trò, vị trí của các ngành CNVH trong phát triển

So sánh với các lĩnh vực khác, nguồn đầu tư công cho văn hóa ở Việt Nam vẫn còn hạn chế. Theo Nghị quyết 40/2021/QH15, tỷ lệ ngân sách dành cho văn hóa, truyền thông chỉ chiếm 0,9% tổng ngân sách được phân bổ. Không chỉ hạn chế về quy mô, cơ cấu đầu tư công cho phát triển các ngành CNVH còn nhiều bất cập. Vì vậy, đầu tư công của Nhà nước chưa đủ sức “dẫn dắt” cho đầu tư của tư nhân trên thị trường văn hóa. Bất cập trong cơ chế chính sách dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giữa khu vực công lập và tư nhân trong việc tiếp cận nguồn hỗ trợ từ Nhà nước cũng như phát huy hiệu quả các nguồn lực. Ví dụ, đối với việc phát huy nguồn nhân lực, lĩnh vực văn hóa vẫn thiếu hụt đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, có trình độ chuyên môn và các kỹ năng phù hợp với định hướng phát triển mới. Trong khi đó, hệ thống chính sách quốc gia vẫn thiếu vắng một chiến lược dài hạn về phát triển nhân lực cho các ngành CNVH.

Việc chậm điều chỉnh các chính sách phát triển các ngành CNVH trong bối cảnh mới rõ ràng đang làm giảm vai trò kiến tạo và khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập của thị trường văn hóa

Đây chính là điểm nghẽn mấu chốt gây cản trở đến sự phát triển của các ngành CNVH trong việc đáp ứng các yêu cầu cấp thiết của thực tiễn. Hiện nay, các chính sách phát triển CNVH chưa phù hợp với sự vận động của thị trường các sản phẩm, dịch vụ CNVH, điển hình như việc kiểm duyệt nội dung các sản phẩm văn hóa - nghệ thuật dựa trên những tiêu chí không rõ ràng. Mặt khác, Nhà nước không có cơ chế và chế tài đủ mạnh để giải quyết vấn đề của cốt lõi của thị trường văn hóa như bảo vệ bản quyền… Những bất cập trong việc sử dụng các công cụ quản lý khiến cho vai trò của Nhà nước đối với thị trường bị hạn chế. Nhà nước chưa thực sự trở thành trọng tài cho các chủ thể kinh tế, chưa điều tiết và đảm bảo hài hòa lợi ích giữa những người sản xuất, phân phối hàng hóa và người tiêu dùng. Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu doanh thu của các ngành CNVH đóng góp 7% GDP, để văn hóa thực sự là ngành “kiếm ra tiền”, tuy nhiên phát triển CNVH vẫn chưa được điều chỉnh bằng văn bản quy phạm pháp luật, thiếu chính sách pháp luật tạo hành lang pháp lý để phát triển lĩnh vực mới, đầy tiềm năng này, trong đó các chính sách về huy động nguồn lực đóng vai trò then chốt.

2. Một số gợi mở mục tiêu chiến lược và giải pháp cụ thể

Thực tế phát triển của các ngành CNVH đang đòi hỏi chúng ta cần xác định tập trung khắc phục bất cập, tháo gỡ các điểm nghẽn trong thực thi thể chế, xây dựng, hoàn thiện chính sách có khả năng tạo cơ chế để thúc đẩy phát triển các sản phẩm, dịch vụ văn hóa gắn với các yêu cầu phát triển bền vững trong giai đoạn mới. Cụ thể:

Về mục tiêu tổng quát, Việt Nam cần xác định

Đến năm 2030, Việt Nam trở thành trung tâm CNVH năng động của khu vực Đông Nam Á.

Phát triển các ngành CNVH Việt Nam trở thành ngành kinh tế quan trọng, trong đó tập trung phát triển có trọng tâm, trọng điểm một số ngành CNVH có tiềm năng, lợi thế nhằm đạt mục tiêu các ngành CNVH đóng góp 7% GDP và tiếp tục góp phần phát triển kinh tế, xã hội của cả nước.

Tiếp tục xây dựng 3 trung tâm CNVH trọng điểm: Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM. Đồng thời, củng cố và mở rộng mạng lưới các thành phố sáng tạo UCCN từ 3 thành phố Hà Nội, Đà Lạt, Hội An năm 2023 lên 5-7 thành phố năm 2029 (trong đó tập trung vào các thành phố có tiềm năng, lợi thế).

Xây dựng và phát triển các sản phẩm, dịch vụ CNVH đa dạng, chất lượng cao dựa trên yếu tố đổi mới, sáng tạo, văn hóa truyền thống và tôn trọng bản quyền; nâng cao các giá trị của các sản phẩm, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa.

Về các giải pháp, chính sách

Cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tối ưu hóa nguồn lực cho phát triển các ngành CNVH. Để tối ưu hóa nguồn lực nội sinh từ văn hóa, cần rà soát sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các chính sách pháp luật nhằm tạo động lực cho sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, xuất khẩu văn hóa, phát huy cơ sở vật chất, thiết chế văn hóa và các chính sách thúc đẩy về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, thị trường văn hóa. Cụ thể: Sửa đổi, bổ sung Luật Quảng cáo ở các quy định về các loại hình quảng cáo, phương tiện quảng cáo mới phát sinh...; Nghiên cứu xây dựng Luật Nghệ thuật biểu diễn, Nghị định về hoạt động văn học, chính sách về tài sản nội dung văn hóa số…

Tiếp tục điều chỉnh, sửa đổi một số luật chuyên ngành như Luật Đầu tư, Luật PPP, các Luật thuế đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp, Nghị định về khuyến khích xã hội hóa nhằm thu hút các nguồn lực trong xã hội tham gia đầu tư, phát triển lĩnh vực văn hóa. Việc đánh giá và đề xuất hoàn thiện thể chế chính sách để huy động nguồn lực cho phát triển văn hóa tập trung vào sử dụng có hiệu quả nguồn lực Nhà nước, huy động nguồn lực xã hội và tối ưu hóa nguồn lực nội sinh từ văn hóa.

Hoàn thiện hệ thống chính sách, điều chỉnh xây dựng Chiến lược, trong đó đặt trọng tâm nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập của thị trường văn hóa, hình thành cấu trúc ngành có trọng tâm, trọng điểm, có tầm nhìn. Về cơ bản, các giải pháp trong lĩnh vực CNVH hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là luật cạnh tranh nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu quả và đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng cho các thành phần kinh tế hoạt động trên thị trường văn hóa Việt Nam; triển khai nhóm giải pháp hoàn thiện thị trường văn hóa, ưu tiên phát triển một số ngành CNVH có thế mạnh hội nhập quốc tế; chú trọng phát triển thị trường văn hóa trên không gian mạng; tăng cường đầu tư đào tạo nguồn nhân lực và thực hiện các giải pháp linh hoạt về quản lý nhân sự trong cơ chế thị trường và các nhóm giải pháp khác; hình thành cấu trúc ngành có trọng tâm, trọng điểm, có tầm nhìn. Sau khi chính thức triển khai Chiến lược quốc gia, Việt Nam đã xây dựng cấu trúc ngành theo định hướng phát huy tiềm năng, lợi thế của từng ngành. Tại thời điểm xây dựng Chiến lược, nhu cầu hình thành một hệ thống chỉ số đánh giá sự đóng góp của ngành CNVH đối với nền kinh tế rất cấp thiết. Tuy nhiên, ngành CNVH trong nước thiếu tiêu chuẩn phân loại khoa học và thống nhất giữa các địa phương và các bộ phận. Do vậy, nhu cầu thực tiễn đặt ra việc xây dựng cách hiểu chung thống nhất về cấu trúc ngành. Cấu trúc ngành vừa phải đảm bảo được sự phân định trọng điểm, hạt nhân, ngoại biên, vừa phải phù hợp với công tác thống kê về kinh tế xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa phân định được cấu trúc ngành. Nhìn lại 7 năm thực hiện Chiến lược, đã cho thấy tiềm năng của ngành trong việc đóng góp vào giá trị kinh tế của đất nước. Thực tiễn phát triển của các ngành nhỏ bên trong cũng ngày càng sinh động hơn mà bản thân việc liệt kê các ngành trong Chiến lược năm 2016 không bao quát hết. Vì vậy, trong tầm nhìn 20 năm tới, để chúng ta có một định hướng tổng thể cho ngành CNVH, việc điều chỉnh và bổ sung cấu trúc ngành là hết sức cần thiết.

Xây dựng quỹ CNVH và xây dựng cơ sở dữ liệu các ngành CNVH, hoàn thiện các chính sách văn hóa đối ngoại có khả năng phát huy tính chủ động hội nhập, tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa nhằm tạo sự lan tỏa mạnh mẽ của giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới. Cần có các chính sách ưu tiên phát triển nghiên cứu văn hóa, phát triển hạ tầng công nghệ đồng bộ, hiện đại đáp ứng yêu cầu Cách mạng công nghiệp 4.0; xây dựng hệ thống dữ liệu thống kê của ngành; hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về văn hóa nghệ thuật; ứng dụng công nghệ GIS trong quản lý, bảo vệ và phát huy di sản văn hóa. Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học về văn hóa nghệ thuật với các tổ chức nghiên cứu khoa học nước ngoài; đẩy mạnh công bố quốc tế các công trình khoa học về văn hóa nghệ thuật.

3. Thay lời kết

Nhìn lại 7 năm triển khai Chiến lược, có thể thấy, Việt Nam hiện là quốc gia tầm trung về phát triển CNVH và dư địa phát triển vẫn còn nhiều. Bên cạnh sự chuyển động tích cực, thực tế cũng chỉ ra, Việt Nam đang gặp không ít thách thức trong phát triển các ngành CNVH theo hướng bền vững. Nhưng thách thức mà Việt Nam đang đối mặt luôn hàm chứa những gợi mở về cơ hội để lựa chọn con đường phát triển phù hợp trong tương lai. Có nghĩa là, đã đến lúc Việt Nam cần vượt ra khỏi các giới hạn của cách tiếp cận chưa tính toán toàn diện về CNVH để hướng tới sự phát triển bền vững. Chúng tôi hy vọng những giải pháp đề xuất được đưa ra tại nghiên cứu này sẽ đưa ra các gợi mở có khả năng thúc đẩy các ngành CNVH Việt Nam theo hướng đáp ứng nhu cầu thực tế, xem xét đến sự chuyển động của từng ngành trong cấu trúc liên ngành ở một tầm nhìn chiến lược, và tin tưởng vào một tương lai mang tính đột phá hơn đối với các ngành CNVH Việt Nam.

_______________

1. Số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ VHTTDL phối hợp với TS Nguyễn Cao Đức, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu châu Mỹ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện phục vụ cho Báo cáo định kỳ 2016-2019 Công ước về bảo vệ và phát huy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa.

2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10. Số liệu của Tổng cục Thống kê, Tham khảo: Bộ VHTTDL, Báo cáo trung tâm Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa văn hóa Việt Nam, Hà Nội, 22-12-2023.

11. Xem thêm Nguyễn Thị Thu Phương, Công nghiệp văn hóa Việt Nam: Sự chuyển động và gợi mở chính sách, qdnd.vn, 25-12-2023.

12. Tham khảo Lê Thanh Liêm, Đánh giá về pháp luật cho phát triển văn hóa, Hội thảo Văn hóa 2022, Thể chế, chính sách và phát triển nguồn lực cho phát triển văn hóa, 2022.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Thị Thu Phương (chủ biên), Định vị các ngành công nghiệp văn hóa trong phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2022.

2. Nguyễn Thị Thu Phương, Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, Chuyên đề số 2-2022.

3. Nguyễn Thị Thu Phương, Kinh nghiệm phát triển công nghiệp văn hóa ở một số quốc gia trên thế giới, Tạp chí Cộng sản, Chuyên đề số 2-2022.

PGS, TS NGUYỄN THỊ THU PHƯƠNG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 560, tháng 2-2024

;