Nét đặc sắc của tập quán xã hội và tín ngưỡng lễ Ét đông

Người Ba Na (nhánh Giơ Lâng) huyện Kon Rẫy (tỉnh Kon Tum) cũng như các dân tộc khác sống trên vùng Trường Sơn Tây Nguyên, với tín ngưỡng đa thần, “vạn vật hữu linh” ... có rất nhiều lễ hội liên quan đến vòng đời con người, cây trồng, vật nuôi. Ét Đông là một trong những lễ hội đặc sắc đó.

Lễ vật được sắp đặt tại nhà Rông
 

Quá trình ra đời và tồn tại

Lễ Ét Đông ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với hoạt động sản xuất nương rẫy cùng với tín ngưỡng văn hóa truyền thống của cộng đồng làng. Lễ được tổ chức hằng năm vào cuối tháng 9 và đầu tháng 10 dương lịch, khi cây lúa bắt đầu trổ đòng, ngậm hạt. Đây là nghi lễ đặc biệt quan trọng, thể hiện sự tôn thờ của cả cộng đồng đối với các vị thần tự nhiên, đặc biệt là với Yang Sơri, Yang Đăk, Yang Kong hay Yang Kră, Yang Kơđrang - được bà con trân trọng và giữ gìn, phát huy giá trị qua nhiều thế hệ. Điều đáng nói là chỉ sau khi tiến hành Lễ hội Ét Đông, người Ba Na mới được phép triển khai những việc lớn của gia đình, như làm nhà mới, sửa nhà cũ, cưới hỏi, mua trâu, bò...

Được biết, ngày xưa, người Ba Na thờ Thần rắn. Sau thời gian chiêm nghiệm, họ thấy rắn có lúc rất no nhưng đôi khi lại rất đói, không có nguồn thức ăn thường xuyên, ổn định. Trong khi đó, thức ăn của dúi lại rất đa dạng: dúi có thể ăn rễ tre, rễ cỏ và bất cứ hoa quả nào gặp phải nên quanh năm suốt tháng chẳng bao giờ dúi sợ thiếu thức ăn. Loài dúi lại không phá hoại mùa màng như lũ chuột đồng nên mọi người càng kính trọng. Vì vậy, bà con đã chuyển sang thờ Thần dúi, xem dúi là con vật thiêng, biểu tượng của sự cần cù và siêng năng, cả năm không bị đói.

Hiện nay, trên địa bàn huyện Kon Rẫy, có 6 làng còn duy trì Lễ hội Ét Đông: Làng Kon Brăp Du (xã Tân Lập), làng Kon Go 1, Kon Go 2, làng Kon Tuk, làng Kon Gộp (xã Đăk Pne), làng Kon Cheo leo (thị trấn Đăk Rve).

Tiến trình diễn ra lễ Ét Đông

Lễ Ét Đông diễn ra trong 4 ngày với nhiều nghi thức truyền thống. Các nghi lễ được thực hiện từ góc thiêng của từng hộ gia đình, trên rẫy và là tại nhà Rông. Tất cả đều tuân theo sự sắp xếp và chỉ đạo của già làng.

Ngày đầu tiên: mọi người dựng “Găng ga” (cổng kiêng) trên đường lên rẫy, dựng cây nêu đầu hồi nhà Rông và từng gia đình thực hiện nghi thức cúng. Bà con thực hiện nghi thức cúng Yang  giữa khu rẫy thiêng của mỗi gia đình.

Ngày thứ hai: các gia đình thực hiện nghi thức cúng cơm giống lúa thừa tại nhà và mang lễ vật lên nhà Rông, thực hiện các nghi thức cúng Yang tại nhà Rông truyền thống của làng.

Thực hiện nghi thức cúng tại nhà: Thứ nhất, bà chủ bếp (ya gạ pơ nai) - ngồi cạnh chỗ lúa giống thừa của vụ mùa trước cầu khấn Yang Sơri xin cho mùa vụ tới được mùa. Sau đó, người chủ gia đình thực hiện nghi thức đặt hạt cơm còn nguyên vẹn được nấu từ giống lúa cũ lên đỉnh đầu. Theo quan niệm của người Giơ Lâng, đó là sự biết ơn đối với các Yang và tổ tiên ông bà đã ban cho sự no đủ, sức khỏe. Sau khi cúng ở nhà, các gia đình mang lễ vật lên nhà Rông.

Tại nhà Rông, các chủ hộ gia đình lần lượt xẻo thịt ở phần mũi con dúi làm lễ vật tế Yang; kéo sợi chỉ dẫn hồn lúa và gắn kết cộng đồng; dâng lễ vật và ước nguyện đốt nến để dẫn lối Yang về tham dự lễ. Con dúi của các hộ gia đình được chuyển lên giàn thiêng của nhà Rông, trong đó con dúi của già làng được chuyển lên trước tiên. Những người ở trên giàn thiêng là do già làng chỉ định và số người bao giờ cũng là số lẻ (5 hoặc 7 người).

 Kết thúc ngày thứ 2, già làng sẽ cử thanh niên trai tráng trong làng ở tại nhà Rông để trông nom lễ vật.

Ngày thứ ba là ngày ăn con dúi cũng đồng thời đưa ông, bà tổ tiên về trời. Trong ngày này, bà con thực hiện  nghi thức ăn con dúi trên dàn thiêng tại nhà Rông. Con dúi sau khi hạ xuống, được xẻ thịt và chia cho tất cả mọi người, phần xương sọ sẽ được buộc vào que tre và cắm vào ghè rượu. Cộng đồng dân cư trong làng cùng ăn uống, trao đổi với nhau về việc chuẩn bị nhà đầm để chứa lúa, sửa soạn nhà cửa sau khi thu hoạch vụ mùa và cùng bàn với nhau về dựng vợ gả chồng cho con cái.

Ngày thứ tư, mọi người lên nhà Rông kiểm tra số lượng hạt gạo đặt dưới ghè rượu có còn nguyên vẹn hay không để đoán định tương lai. Họ thu ghè rượu, kiểm tra gói hạt gạo được gói bằng lá pem và giấu dưới đáy ghè rượu từ hai hôm trước. Số lượng hạt gạo bằng số thành viên trong gia đình cộng thêm một. Nếu gói hạt gạo còn nguyên vẹn nghĩa là sang mùa rẫy mới gia đình đó sẽ có một vụ mùa bội thu. Ngược lại nếu hạt gạo bị sứt mẻ hoặc thừa hay thiếu thì gia đình sẽ gặp nhiều điều không hay.

Dâng lễ vật và ước nguyện đốt nến để dẫn lối Yang về tham dự Lễ
 

Các giá trị văn hóa được bảo tồn trong lễ Ét Đông

Ét Đông là thời khắc đánh dấu năm cũ đã hết, năm mới đến với những hy vọng mới, niềm vui mới bắt đầu. Trong Ét Đông, mỗi người đều tự rũ bỏ phiền não, mọi hiềm khích trong cuộc sống hằng ngày của năm cũ đều được hòa giải, xóa bỏ.

Ét Đông là một lễ hội độc đáo, lôi cuốn hiếm thấy và mang tính triết lý nhân văn sâu sắc. Thông qua lễ hội, hằng năm, người Ba Na  muốn giáo dục con cháu mình phải biết giữ gìn truyền thống, nhớ ơn tổ tiên ông bà, đoàn kết thương yêu nhau và chăm chỉ làm ăn mới mong có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ét Đông là nghi lễ mang tính cộng đồng cao, tạo nên một giá trị nhân văn sâu sắc, sự phân công lao động thể hiện sự công bằng nhưng cũng mang tính đoàn kết cao.

Ẩm thực truyền thống được duy trì và kế thừa cũng thể hiện lòng thành của dân làng với tổ tiên, với thần linh trên trời, tạo sự gắn kết, gần gũi mà không mất đi những bản sắc văn hóa  vốn có từ bao đời. Đặc biệt trong lễ Ét Đông, người ta không thịt vật nuôi trong gia đình, như trâu, bò hay lợn gà... Hầu hết các thực phẩm đều có sẵn trong tự nhiên như: rau rừng, cá suối, thịt rừng…

Lễ là nơi nghệ thuật trình diễn dân gian được thực hành nhiều nhất, đặc biệt là không gian văn hóa cồng chiêng, các bài dân ca truyền thống. Lễ hội cũng là nơi bảo tồn văn hóa thổ cẩm thông qua những bộ trang phục, bà con muốn nhắn gửi về ý thức giữ gìn những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc Ba Na tỉnh Kon Tum với thế hệ sau.

Để tiếp tục gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo này, “Tập quán xã hội và tín ngưỡng lễ Ét Đông của nhóm Giơ Lâng (Ba Na) huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum” đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (Quyết định số 1731/QĐ-BVHTTDL ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Bộ VHTTDL về việc công bố Danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia).

Các cấp chính quyền, cơ quan chức năng cần quan tâm, nghiên cứu việc ban hành cơ chế, chính sách đầu tư, hỗ trợ kinh phí bảo tồn, tổ chức những nghi lễ, lễ hội tại các thôn làng người Giơ Lâng để đảm bảo nghi lễ, lễ hội được tổ chức thường niên và giữ gìn nguyên vẹn bản sắc và truyền thống văn hóa. Đồng thời, thực hiện tốt việc quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa; khuyến khích người dân tổ chức lễ hội thường niên nhưng không can thiệp vào lễ hội; để người dân làm chủ nghi lễ, tổ chức theo đúng các nghi thức truyền thống. Ở phương diện khác, cần phát huy vai trò của các già làng, thôn trưởng và cả vai trò của những người già có uy tín trong làng; nghiên cứu, sưu tầm các nghi lễ, lễ hội tại địa phương và khuyến khích việc trao truyền giữa các thế hệ tại cộng đồng làng nhằm bảo tồn, phát huy hiệu quả vốn văn hóa truyền thống của người Ba Na trong đời sống cộng đồng.

Đến với huyện Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum vào những ngày cuối tháng 9 và đầu tháng 10 dương lịch, khi cây lúa bắt đầu trổ đòng, ngậm hạt, du khách sẽ được tham quan, tận mắt chứng kiến sự đặc sắc, hiếm thấy của Lễ hội Ét Đông, được thưởng thức các món ăn dân gian của bà con, nhâm nhi ché rượu cần được ủ từ loại nếp cẩm, nếp than, được nghe tiếng cồng, tiếng chiêng hòa chung với điệu múa Xoang nhịp nhàng của những cô gái, chàng trai Ba Na trong trang phục thổ cẩm bên mái nhà Rông truyền thống... Rồi đây, những vẻ đẹp truyền thống đặc sắc ấy sẽ được tiếp tục giữ gìn, lưu truyền mãi.

 

PHẠM VIẾT THẠCH

Nguồn: Tạp chí VHNT số 486, tháng 1-2022

 

;