Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh: Một số giải pháp phát triển

Công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Những năm qua, trong định hướng phát triển, tỉnh Bắc Ninh luôn quan tâm xây dựng, triển khai thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020, với sự nỗ lực, cố gắng không ngừng của các cấp ủy, chính quyền và nhân dân trong tỉnh, nông nghiệp, nông dân, nông thôn Bắc Ninh đã có những chuyển biến tích cực, mạnh mẽ: tất cả 94 xã của tỉnh Bắc Ninh đã “cán đích”, 8 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn Nông thôn mới. Hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn được đầu tư nâng cấp và từng bước phát triển nhanh theo hướng đô thị hóa, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô ngày càng lớn và trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp từng bước được nâng cao theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học và nhiều khâu sản xuất nông nghiệp đạt tỷ lệ cơ giới hóa cao đã tạo tiền đề nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động của ngành công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh. Đời sống vật chất, tinh thần người dân không ngừng được cải thiện. Các giá trị văn hóa truyền thống được gìn giữ, bảo tồn và phát huy. Hệ thống chính trị ở cơ sở ngày càng vững mạnh, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố.

Khơi dậy sức dân trong xây dựng nông thôn mới, đến nay 100% đường làng, ngõ xóm ở Gia Bình được trải nhựa, bê tông hóa - Ảnh: Báo Bắc Ninh

 

Kết cấu hạ tầng nông thôn được đầu tư đồng bộ, hiện đại

Với quan điểm xây dựng nông thôn tỉnh Bắc Ninh tiệm cận với đô thị, các cấp ủy, chính quyền các cấp đã nêu cao trách nhiệm trong việc xây dựng nông thôn mới và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm. Tỉnh đã vận động các doanh nghiệp (DN) đang hoạt động trên địa bàn đóng góp tiền, công trình; tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân đóng góp vật chất, đất đai, ngày công lao động; thu hút DN công nghệ cao đầu tư vào nông nghiệp. Các tổ chức chính trị - xã hội đã có nhiều đổi mới trong phương thức hoạt động để phù hợp với nội dung, cách thức triển khai cũng như yêu cầu phát triển của Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Mặt trận Tổ quốc các cấp triển khai cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, đã vận động ủng hộ được 81 tỷ đồng cho Quỹ “Vì người nghèo” và hỗ trợ xây mới 2.411 nhà “Đại đoàn kết” trị giá trên 130 tỷ đồng. Hội Nông dân triển khai mô hình “Cánh đồng không bao bì thuốc bảo vệ thực vật”, vận động 100% tổ chức Hội cơ sở ký cam kết “Nói không với thực phẩm bẩn”. Công đoàn triển khai phong trào thi đua “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”, với 8.387 đề tài, sáng kiến được áp dụng. Hội Phụ nữ các cấp đã thành lập 136 mô hình “Làng 3 sạch”, trồng được 273km đường hoa, 19km đường cây xanh, hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp 76 dự án với nguồn vốn trên 50 tỷ đồng. Đoàn Thanh niên thực hiện chương trình “Đồng hành với thanh niên khởi nghiệp, lập nghiệp” với 58 dự án, tổng nguồn vốn 43 tỷ đồng. Hội Cựu chiến binh các cấp với phong trào “Cựu chiến binh giúp nhau giảm nghèo, làm kinh tế giỏi”, “Cựu chiến binh hiến đất làm đường giao thông nông thôn”...  Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị - xã hội đã thực hiện tốt công tác giám sát, phản biện xã hội, lấy ý kiến của nhân dân, hội viên, đoàn viên trong triển khai, thực hiện và kết quả xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

Giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh Bắc Ninh ưu tiên phân bổ toàn bộ tiền bán đấu giá quyền sử dụng đất cho các địa phương để xây dựng nông thôn mới. Tổng nguồn vốn đã huy động và bố trí cho xây dựng nông thôn mới ước khoảng 13.323 tỷ đồng, cao gấp 2,4 lần so với giai đoạn 2011 - 2015, trong đó: Ngân sách Trung ương là 15 tỷ đồng (0,11%); ngân sách địa phương là 11.676 tỷ đồng (87,64%); lồng ghép từ các chương trình, dự án khác là 18 tỷ đồng (0,13%); tín dụng là 1.536 tỷ đồng (11,53%); DN đóng góp 8 tỷ đồng (0,06%); cộng đồng, người dân tự nguyện đóng góp và nguồn vốn khác 71 tỷ đồng (0.53%). Kết quả, tỷ lệ xã có số km đường giao thông đến trụ sở UBND xã được nhựa, bê tông hoá từ 75% trở lên 100%, tỷ lệ xã có điểm dừng xe buýt công cộng đạt 60,64%, đặc biệt là đầu tư hạ tầng cho giáo dục được quan tâm với nhiều chỉ tiêu vượt xa so với bình quân chung cả nước.

Với những kết quả như trên, Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới được triển khai tích cực gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng nông thôn được đầu tư, nâng cấp theo phương châm xã hội hóa, Nhà nước và nhân dân cùng làm, hướng tới đạt tiêu chuẩn đô thị. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 100% số xã và 100% đơn vị cấp huyện đạt chuẩn và hoàn thành Nông thôn mới, vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX đề ra và là một trong 11 tỉnh trên phạm vi toàn quốc có 100% các xã đạt chuẩn Nông thôn mới.

Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp

Để nông nghiệp, nông dân, nông thôn phát triển nhanh và bền vững, tỉnh Bắc Ninh tập trung cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp theo hướng: Tăng cường liên kết, tích tụ ruộng đất, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa; đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp; phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, gắn với công nghiệp chế biến; khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế biến công nghệ cao; phát triển các cụm công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn; chuyển đổi mô hình hợp tác xã nông nghiệp; cải thiện, nâng cấp và đầu tư mới hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp; xây dựng và phát triển mô hình chuỗi liên kết sản xuất... Các tiến bộ khoa học - kỹ thuật được ứng dụng và đưa vào sản xuất như: Sản xuất cây trồng theo tiêu chuẩn VietGAP; sản xuất rau, hoa trong nhà lưới, nhà kính, tưới tự động; chăn nuôi theo công nghệ chuồng kín với hệ thống làm mát, điều khiển nhiệt độ chuồng nuôi, máng ăn và nước uống tự động; công nghệ sản xuất cá giống bằng phương pháp đẻ vuốt, ấp trứng bằng bình vây để sản xuất cá chép giống, công nghệ sử dụng hoóc-môn để sản xuất giống cá rô-phi đơn tính... đã góp phần quan trọng nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và giá trị thu nhập trên đơn vị canh tác. Đến nay, toàn tỉnh chuyển đổi xong 722 Hợp tác xã nông nghiệp sang hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm 2012; hình thành 552 vùng sản xuất hàng hóa tập trung ứng dụng công nghệ cao; tăng tỷ trọng chăn nuôi và thủy sản theo hướng chuyển từ coi trọng tăng số lượng sang tập trung vào nâng cao chất lượng, giá trị. Năng suất lao động bình quân của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 14,5%/năm. Tổng giá trị GRDP khu vực nông, lâm thủy sản (giá hiện hành) của tỉnh liên tục tăng qua từng năm từ 5.312 tỷ đồng (2015) lên đến 6.136 tỷ đồng (2021), tăng bình quân gần 2,93%/năm, tỷ trọng cơ cấu GRDP khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 4,13% (2015) xuống còn 2,7% (2021), song giá trị sản phẩm trồng trọt và nuôi trồng thủy sản từ 105,8 triệu đồng/ha (năm 2015) lên 134,9 triệu đồng/ha (2021), tăng bình quân gần 5%/năm.

Cùng với việc triển khai thực hiện Chương trình “Mỗi xã, phường, thị trấn một sản phẩm” (Chương trình OCOP), công tác tuyên truyền, quảng bá nông sản, sản phẩm làng nghề của các địa phương trong tỉnh được các cấp, các ngành quan tâm, nhất là việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm làng nghề. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 19 sản phẩm nông nghiệp, làng nghề được bảo hộ sở hữu trí tuệ tập thể, trong đó có 10 sản phẩm được bảo hộ sở hữu trí tuệ dưới hình thức nhãn hiệu chứng nhận; 8 sản phẩm được bảo hộ sở hữu trí tuệ dưới hình thức nhãn hiệu tập thể; 1 sản phẩm được cấp bảo hộ sở hữu trí tuệ dưới hình thức chỉ dẫn địa lý.

Nhằm góp phần thu hẹp khoảng cách giữa khu vực thành thị và nông thôn, công tác đầu tư hạ tầng thương mại, dịch vụ được chú trọng theo hướng văn minh, hiện đại. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã hình thành mạng lưới 4 trung tâm thương mại quy mô lớn; 469 siêu thị, chợ truyền thống, cửa hàng tiện ích; đa dạng hóa các kênh phân phối, gắn kết giữa thành thị với nông thôn, giữa Bắc Ninh với các địa phương trong cả nước và phục vụ xuất khẩu.

Các thiết chế văn hóa được củng cố và phát huy

Trong những năm qua, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở luôn được chính quyền địa phương các cấp tỉnh Bắc Ninh luôn quan tâm đầu tư, tu sửa. Ở cấp tỉnh, hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao hiện nay có: Bảo tàng, Thư viện, Trung tâm Văn hóa tỉnh, Nhà thi đấu đa năng, Nhà hát Dân ca Quan họ, phòng tập thể lực chất lượng cao cho vận động viên Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu thể thao tỉnh; khu tập luyện Vận động viên bóng chuyền... Hệ thống quảng trường, tượng đài, công viên có: Quảng trường Trung tâm Văn hóa Kinh Bắc, Tượng đài Lý Thái tổ, Công viên Nguyên Phi Ỷ Lan, Công viên Hoàng Quốc Việt, Công viên Nguyễn Văn Cừ, Đền thờ và Tượng đài Lý Thường Kiệt... Thiết chế văn hóa, thể thao phục vụ thanh thiếu nhi có: Cung văn hóa thiếu nhi tỉnh với các hạng mục là: Nhà đa năng, khu điều hành, bể bơi và khuôn viên vui chơi dành cho trẻ em... Ngoài ra, Bắc Ninh còn phê duyệt đầu tư xây dựng 14 thiết chế văn hóa đặc thù là “Nhà chứa Dân ca Quan họ”, hiện tại đã đưa vào sử dụng 8 công trình.

Thời gian qua, nhiều thiết chế văn hóa trọng điểm của tỉnh được đầu tư xây dựng mới và tu bổ, nâng cấp hằng năm.

Các huyện, thành phố cũng tích cực thực hiện quy hoạch quỹ đất và triển khai xây dựng thiết chế văn hóa, thể thao cấp huyện: Toàn tỉnh có 8 Trung tâm Văn hóa - Thể thao (VHTT) cấp huyện đã được thành lập tiêu biểu như: Trung tâm Văn hóa Luy Lâu (Thuận Thành), Trung tâm Văn hóa thành phố Bắc Ninh... Cấp xã có 123/126 xã, phường, thị trấn thành lập Trung tâm Văn hóa - Thể thao và đều bố trí cán bộ công chức văn hóa xã quản lý, tổ chức hoạt động; 108/126 xã, phường, thị trấn có Nhà văn hóa, khu thể thao (đạt tỷ lệ 85.7%); cấp thôn hiện đã có 675/733 thôn, làng, khu phố có Nhà văn hóa đạt tiêu chí theo quy định của Bộ VHTTDL, kiến trúc hiện đại, trang thiết bị đầy đủ phục vụ hoạt động hội họp, sinh hoạt văn hóa văn nghệ, TDTT của nhân dân, có 1.558 hệ thống thiết chế văn hóa di tích lịch sử - văn hóa, cách mạng như đình, đền, chùa, nghè, miếu, nhà thờ họ... bộ phận hợp thành của hệ thống thiết chế văn hóa trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, số xã có điểm bưu điện văn hóa toàn tỉnh hiện đạt 91,49%; số xã có sân thể thao xã đạt 29,79%; xã có thư viện xã đạt 24,47%; xã có Trạm y tế xã có đủ điều kiện khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế chiếm khá cao 95,74%; xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung đạt 34,04% và xã có bãi rác tập trung trên địa bàn hiện đạt 72,34%.

Nhìn chung, các thiết chế văn hóa được đưa vào khai thác, bước đầu phát huy tác dụng trong thực tiễn góp phần nâng cao phong trào văn hóa văn nghệ, TDTT phát triển sâu rộng và đều khắp, thu hút đông đảo mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Qua đó, nâng cao đời sống thể chất, tinh thần nhân dân, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống cộng đồng địa phương và nâng cao chất lượng các phong trào xây dựng gia đình, khu dân cư văn hóa, tạo động lực thúc đẩy phát triển bền vững.

Các thiết chế văn hóa cơ sở đã thực hiện chức năng tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tổ chức sinh hoạt tín ngưỡng, tổ chức các hoạt động tại chỗ với các loại hình câu lạc bộ; các lễ hội; giáo dục trực quan; văn nghệ quần chúng; mở các lớp năng khiếu; tổ chức vui chơi giải trí… phục vụ cán bộ và nhân dân trên địa bàn. Từ đó, góp phần vào việc bảo tồn, quảng bá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đóng góp quan trọng trong quá trình phát triển của tỉnh.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới, đó là: nông nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa phát triển chưa ổn định, hiệu quả chưa cao; DN đầu tư vào nông nghiệp tăng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp so với lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ; sản xuất nông sản theo tiêu chuẩn sạch, an toàn có quy mô chưa đáng kể; chưa hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao... chưa tương xứng với tiềm năng và đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh.

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XX đề ra mục tiêu giai đoạn 2021 - 2025: nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 1 đến 1,2%/năm; 100% số xã duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí, phấn đấu có ít nhất 2 huyện và 30% số xã đạt chuẩn Nông thôn mới kiểu mẫu, 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh cần tiếp tục tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục phát động và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua trong xây dựng Nông thôn mới. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, nâng cao nhận thức để cán bộ, đảng viên và người dân hiểu đầy đủ bản chất nhân văn của xây dựng Nông thôn mới, quán triệt tư tưởng “Xây dựng Nông thôn mới có điểm khởi đầu, không có điểm kết thúc”.

Hai là, bám sát quy hoạch chung đô thị Bắc Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các cấp, các ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ và an toàn sinh học theo hướng: Khuyến khích chuyển nhượng hoặc cho thuê ruộng đất theo quy định của pháp luật để tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân, nhất là các DN có đất đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Phát triển liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, tăng cường khâu bảo quản và chế biến hàng nông sản. Hình thành các trung tâm kết nối, xúc tiến tiêu thụ, xuất khẩu sản phẩm gắn với chuỗi các chợ đầu mối hoặc trung tâm cung ứng hàng nông sản hiện đại, sàn giao dịch nông sản. Tăng cường nghiên cứu xây dựng, quản lý nhãn hiệu, thương hiệu cho các sản phẩm nông sản góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh; đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp; phát triển chăn nuôi trang trại xa khu dân cư. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng thâm canh, ứng dụng công nghệ cao. Khuyến khích, hỗ trợ phát triển tiểu thủ công nghiệp, ngành, nghề nông thôn; quan tâm bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống. Tiếp tục đổi mới phương thức thực hiện và nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo hướng gắn đào tạo nghề với triển khai các mô hình, dự án phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị cụ thể, theo nhu cầu hoặc dự án đầu tư ở nông thôn của DN và các tổ chức kinh tế...

Ba là, tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng nông thôn theo hướng hình thành khu vực dân cư và kết cấu hạ tầng phù hợp tiến trình công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn, cơ cấu lại nông nghiệp và thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn, nhằm từng bước chuẩn bị cho việc hình thành đô thị trong tương lai, tránh lãng phí nguồn lực đầu tư. Đối với các xã và huyện đã đạt chuẩn Nông thôn mới, tập trung chỉ đạo xây dựng Nông thôn mới nâng cao, Nông thôn mới kiểu mẫu theo tiêu chí quy định hiện hành, đồng thời xác định nội dung, giải pháp thực hiện, bảo đảm giữ vững và đạt chuẩn nông thôn mới trong giai đoạn tiếp theo. Xây dựng điểm một số mô hình khu dân cư Nông thôn mới kiểu mẫu gắn với đô thị văn minh mang đậm bản sắc văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc.

Bốn là, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục, xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa, thể thao nông thôn, bài trừ tệ nạn xã hội để nâng cao đời sống tinh thần và an ninh nông thôn. Giữ gìn và phát huy sự đa dạng, phong phú về bản sắc văn hóa; chú trọng trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử, công trình văn hóa hiện có ở các địa phương, làm cơ sở để nhân rộng các mô hình du lịch trải nghiệm, du lịch khám phá ở các vùng nông thôn. Phát huy vai trò của nhân dân trong giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn nông thôn.

Năm là, chú trọng bảo vệ môi trường, tạo cảnh quan nông thôn sáng - xanh - sạch - đẹp, hiện đại, giữ gìn được những đặc trưng và bản sắc nông thôn truyền thống, trong đó tập trung phát triển và nhân rộng các mô hình đường hoa - cây xanh, tạo môi trường nông thôn trong lành, không có các hoạt động gây ô nhiễm và suy thoái môi trường, triển khai các mô hình phân loại rác tại nguồn và khuyến cáo không sử dụng túi ni-lông trong sinh hoạt. Phát động các phong trào làm sạch làng quê. Nâng cao tỷ lệ sử dụng nước sạch đạt chuẩn theo hệ thống cung cấp tập trung thông qua các hình thức xã hội hóa phù hợp. Nâng cao tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn từ sinh hoạt của người dân nông thôn với các mô hình phù hợp (liên xã, liên huyện). Đẩy mạnh xử lý môi trường ở những nơi gây ô nhiễm nghiêm trọng (làng nghề, bãi tập trung chôn lấp, xử lý rác, nước thải...).

Sáu là, ngoài nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, tiếp tục tăng cường thực hiện hiệu quả các giải pháp huy động tối đa nguồn lực từ nhân dân và DN tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và xây dựng Nông thôn mới. Vận động nhân dân tự nguyện tham gia đóng góp kinh phí, ngày công lao động, hiến đất... để tập trung phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở (giao thông, thủy lợi, nước sạch, môi trường, công trình văn hóa...) ở nông thôn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong xây dựng Nông thôn mới, trong đó chú trọng quản lý chặt chẽ việc sử dụng các nguồn lực (bao gồm nguồn vốn ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác). Tiếp tục phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của cộng đồng dân cư trong xây dựng Nông thôn mới.

Như vậy, với tinh thần quyết tâm cao, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, hiện đại hóa nông thôn ở Bắc Ninh những năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần xây dựng tỉnh Bắc Ninh phát triển bền vững, phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng văn minh, hiện đại.n

_______________

Tài liệu tham khảo:

1. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh, Niên giám thống kê năm 2022.

2. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh, Kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020.

3. UBND tỉnh Bắc Ninh: Kết quả 5 năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2016-2020.

 

KHỔNG VĂN THẮNG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 504, tháng 7-2022

 

;