Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua nhiều khó khăn thử thách, sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là phát triển kinh tế, ổn định chính trị, hội nhập quốc tế. Các thế lực thù địch, bọn phản động dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt, thâm hiểm chống phá hòng làm mọi người mơ hồ về nhận thức chính trị, lung lay niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, xa rời con đường đi lên CNXH. Vì vậy, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên vô cùng phức tạp. Giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định con đường đi lên CNXH; xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh không ngừng cuộc chiến chống tham nhũng, thực hiện tốt các quyết sách chiến lược về kinh tế - văn hóa - xã hội… là những giải pháp hữu hiệu để chúng ta giành thắng lợi.
Tổng Bí thư Tô Lâm cùng các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước luôn quan tâm chăm lo tới cuộc sống của các tầng lớp nhân dân - trong ảnh: Tổng Bí thư Tô Lâm với cháu thiếu nhi ở đảo Bạch Long Vỹ (Hải Phòng) trong chuyến công tác tháng 11- 2024 - Ảnh: Vũ Huyến
Tự hào về trang sử vàng dân tộc
Lần giở lại lịch sử từ khi dân tộc Việt Nam có Đảng Cộng sản và Bác Hồ lãnh đạo, chúng ta vô cùng tự hào khi thấy sự nghiệp cách mạng của nhân dân các dân tộc Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn, làm thay đổi vận mệnh của cả dân tộc, thay đổi cuộc đời của mỗi con người. Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 long trời lở đất đã giải phóng dân tộc, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày 2/9 đã đi vào lịch sử với bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng ta tuyên bố với thế giới về nền độc lập tự do của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Đó là thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa mở đầu của các dân tộc thuộc địa dưới sự lãnh đạo của một chính đảng, chặt đứt một mắt xích quan trọng trong hệ thống thuộc địa của thực dân đế quốc, khơi dậy ngọn lửa cách mạng vùng lên giành độc lập của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Khi chính quyền còn non trẻ đang thời kỳ trứng nước với muôn vàn khó khăn, chúng ta lại phải đối mặt với thù trong giặc ngoài: trong nước bọn phản động ngóc đầu dậy, bên ngoài thực dân Pháp lăm le xâm lược nước ta một lần nữa, chưa kể đến quân Tàu Tưởng lấy danh nghĩa quân Đồng minh vào nước ta giải giáp vũ khí của phát xít Nhật. Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng, vận mệnh quốc gia như ngàn cân treo sợi tóc, dưới sự lãnh đạo mềm dẻo, khéo léo của Đảng mà đứng đầu là Bác Hồ, chúng ta lúc thì hòa Tưởng, lúc thì hoà hoãn với Pháp để đuổi Tưởng về nước, tranh thủ những điều kiện có lợi để củng cố chính quyền, quân đội còn non trẻ dù có lúc phải chấp nhận một số điều kiện thiệt thòi. Thực tiễn đã minh chứng từng đường đi, nước bước của Đảng và Bác Hồ trong chỉ đạo cách mạng Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Hòa bình lập lại chưa được bao lâu, lịch sử lại một lần nữa thử thách lòng kiên trì, dũng cảm, đức hy sinh của toàn thể dân tộc Việt Nam : Đế quốc Mỹ hất cẳng Pháp can thiệp và xâm lược nước ta. Trong gian khổ hy sinh, quân và dân ta triệu người như một đã anh dũng chống lại đội quân xâm lược nhà nghề, có tiềm lực quân sự, kinh tế mạnh nhất thế giới. Biết bao máu xương của đồng bào, chiến sĩ đã đổ xuống để có ngày toàn thắng 30/4/1975, non sông thu về một mối, cả nước đi lên CNXH. Dù rằng con đường đi lên CNXH còn nhiều chông gai, thử thách song đây là sự lựa chọn mang tính tất yếu. Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn đất nước cùng với sự nhận thức sâu sắc về những quy luật tất yếu, khách quan.
Thanh niên Việt Nam phát huy tinh thần xung kích của tuổi trẻ trên các mặt hoạt động của đời sống xã hội - Ảnh: TTXVN
Giữ vững lòng tin
Trước thực tế Liên Xô và một loạt nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ năm 1991, trong xã hội ta cũng còn một số người mơ hồ về khái niệm CNXH ở Việt Nam, họ tỏ ý nghi ngờ về chủ nghĩa xã hội, lại thêm nhiều quan điểm sai trái, xuyên tạc, bóp méo được thực hiện một cách tinh vi, xảo quyệt của bọn phản động và các thế lực thù địch hằng ngày tác động trên nhiều phương diện từ diễn dàn đến mạng xã hội nên có những người đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, lung lay lòng tin. Tình hình quốc tế và trong nước hiện nay đặt ra nhiều vấn đề mới so với thời kỳ trước đây, đòi hỏi Đảng, Nhà nước, đội ngũ cán bộ đảng viên phải có trí tuệ, bản lĩnh, vững vàng kiên định, toàn tâm toàn ý phụng sự Tổ quốc, nhân dân, làm cho sự nghiệp của đất nước luôn lớn mạnh, nhân dân các dân tộc ấm no, hạnh phúc. Điểm nổi bật qua gần 40 năm đổi mới, Đảng ta luôn vận vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để hoạch định chính sách, không ngừng đổi mới và hoàn thiện đường lối phù hợp với những yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta trước những biến đổi mau lẹ, phức tạp của thế giới và khu vực. Nhìn một cách tổng quát, nền tảng tư tưởng của Đảng đã được giữ vững qua các thời kỳ, các giai đoạn. Vậy CNXH là gì, con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là gì? Tôi rất tâm huyết với ý kiến của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh; do dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc sống trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Để đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Một trong những vấn đề rất quan trọng trong quá trình lãnh đạo đất nước Đảng ta đã đổi mới tư duy lý luận làm khâu đột phá cho toàn bộ sự nghiệp đổi mới của mình. Nhìn lại thực tế của những năm 80 thế kỷ trước đối với toàn bộ nền kinh tế xã hội Việt Nam, xuất phát từ những khuyết điểm, sai lầm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội của Đảng, xuất phát từ bản chất cách mạng của lý luận Mác-Lê nin, đứng trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới cũng như tác động của “cải cách, mở cửa” hay “cải tổ” đang diễn ra ở một số nước xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi chúng ta “phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy”. Đó là đòi hỏi bức thiết của đất nước và cũng là đặc tính của cách mạng, là bản chất sâu xa của chủ nghĩa Mác - Lê nin, là xu thế tất yếu của thời đại. Đổi mới trên cơ sở kế thừa, kế thừa để đổi mới. Đó là biện chứng của sự phát triển nói chung, của tư duy lý luận nói riêng. Mọi giáo điều, xơ cứng trong tư duy lý luận đều trái với bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Chính Lê nin, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân toàn thế giới đã chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”. Để đổi mới tư duy một cách có hiệu quả, Đảng ta cho rằng cần phải tạo ra những điều kiện xã hội thuận lợi trong quá trình đổi mới. Trước hết là bầu không khí dân chủ trong xã hội, nhất là trong sinh hoạt Đảng, trong nghiên cứu khoa học, lý luận; tôn trọng lẽ phải, tôn trọng chân lý theo tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật; phải tiến hành phê bình và tự phê bình một cách thường xuyên, nghiêm túc. Thực tiễn sau gần 40 năm đổi mới toàn diện đất nước ta đã chứng minh rõ nét điều đó. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé với GDP thấp trong những năm đầu đổi mới, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ 2008; quy mô nền kinh tế đạt 430 tỷ USD, đứng thứ 35 trong top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Vào năm 2023, GDP bình quân đầu người đã đạt mức 4.300 USD, tăng 58% so với những năm đầu đổi mới. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 58% theo chuẩn cũ năm 1993 của Chính phủ xuống còn 2,93% theo chuẩn nghèo đa chiều vào năm 2023, đưa Việt Nam trở thành hình mẫu nổi bật về nỗ lực xoá đói giảm nghèo trong số quốc gia đang phát triển. Từ một nền kinh tế đóng cửa, khép kín, chúng ta đã thành đối tác thương mại lớn thứ 22 toàn cầu. Năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 700 tỷ USD, thu hút đầu tư nước ngoài đạt 23 tỷ USD là mức cao nhất từ trước đến nay ngay cả khi các thị trường lớn bị thu hẹp và chuỗi cung ứng toàn cầu còn nhiều đứt gãy vì đại dịch COVID-19. Cùng với quá trình cải cách và mở cửa, khả năng thích ứng và mức độ chống chịu của nền kinh tế ngày càng được nâng cao. Việt Nam đã vững vàng vượt qua những tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19 được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Đập tan mọi luận điệu của các thế lực thù địch
Trong điều kiện Việt Nam, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế không tách rời mà nó gắn bó chặt chẽ với xã hội. Thể chế kinh tế không phải là sự gán ghép có tính cơ học như một số luận điệu của các phần tử cơ hội, phản động mà là sự kết hợp hữu cơ giữa hai yếu tố thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Có một điều chúng tôi muốn nói: nhiều người cố tình không nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan và công tâm những thành tựu mà đất nước đã đạt được, họ xoáy sâu vào những tiêu cực mà một số cán bộ, đảng viên, thậm chí cán bộ cấp cao mắc phải để chê bai, từ đó dẫn đến phai nhạt lòng tin, xa rời lý tưởng cách mạng, có người chống Đảng, xuyên tạc đường lối của Đảng, ngộ nhận rằng CNXH giờ đã lỗi thời, chủ nghĩa tư bản đã có những thành tựu vượt bậc về khoa học kỹ thuật… Có tình trạng này là do suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ; tình trạng tham nhũng, quan liêu, tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn triệt để, lối sống sinh hoạt của một bộ phận cán bộ xa hoa, xa rời với truyền thống tốt đẹp của dân tộc; rồi tác động của mặt trái kinh tế thị trường, mở cửa; sự điên cuồng chống phá của các thế lực thù địch và bọn phản động với nhiều thủ đoạn thâm hiểm, tinh vi. Tất cả những lý do trên đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên lung lay niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sa sút ý chí chiến đấu, không làm tròn bổn phận chức trách được giao, không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, họ dần sống ích kỷ, vụ lợi, hám danh, ham quyền lực, bè phái, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân. Nguyên nhân chủ quan này là một trong những lý do chính mà chúng tôi cho rằng nó bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ việc cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, họ nghĩ mình đang “làm quan cách mạng” thì việc hưởng bổng lộc, làm giàu như một lẽ “tất nhiên”. Chưa nói đến một số người noi gương xấu của đảng viên có chức vụ cao giàu lên nhanh chóng, nếu mình không “làm theo” cũng thấy bản thân “thiệt thòi”. Vì vậy, cần phải nâng cao bản lĩnh chính trị, tính chiến đấu của mỗi cán bộ, đảng viên, không dao động trước mọi tình huống; mặt khác, có chế tài xử lý nghiêm, kiên quyết chống đến cùng tham nhũng đúng với tinh thần của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “chống tham nhũng, tiêu cực không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”.
Một khía cạnh nữa cần đề cập lý do không kiên định con đường đi lên CNXH là từ luận điệu xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê nin của các thế lực thù địch đã tác động đến tư tưởng, nhận thức của cán bộ, đảng viên từ trực tiếp đến thông qua các phương tiện thông tin, qua không gian mạng xã hội với nhiều thủ đoạn tinh vi, dễ làm một số người ngộ nhận nếu không được trang bị đầy đủ kiến thức và nhãn quan chính trị nhạy bén. Các thế lực thù địch tung ra nhiều quan điểm, luận điệu rằng chủ nghĩa Mác- Lê nin đã bị lỗi thời, có chăng chỉ phù hợp với những năm của thế kỷ 19, hoặc cùng lắm là đầu thế kỷ 20 mà thôi. Họ không thấy một số luận điểm của Các Mác, Ăng ghen, Lê nin có thể không còn phù hợp với điều kiện lịch sử mới, song những quy luật phát triển cơ bản, phổ quát của lịch sử loài người mà chủ nghĩa Mác- Lê nin nêu lên vẫn có giá trị thời đại. Chủ nghĩa Mác - Lê nin vẫn là lý luận khoa học cho nhận thức xã hội mà không học thuyết nào có thể thực hiện được vai trò đó. Chủ nghĩa Mác - Lê nin từ khi được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tiếp thu, vận dụng sáng tạo đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, lý luận chỉ đạo cách mạng Việt Nam, trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản, nguồn gốc thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cần chỉ rõ bản chất thực sự của chiến lược “diễn biến hòa bình” hiện nay là hoạt động của các thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền, nhằm vào các nước có chế độ chính trị mà họ coi là không phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các biện pháp chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh… để chuyển hóa chế độ chính trị của các nước này theo một quỹ đạo có lợi cho họ. Chính vì thế mà công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên vô cùng phức tạp, đặt ra những vấn đề mới mẻ cần có tư duy mới và hành động hiệu quả hơn. Đấu tranh phòng chống “diễn biến hòa bình”, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ không thể tách rời với cuộc đấu tranh không khoan nhượng với các phần tử cơ hội chính trị.
Kiên định con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn
Trong những nhiệm vụ cần làm để củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, chúng tôi cho rằng nhiệm vụ chấn hưng văn hóa, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là nhiệm vụ chính trị mang tính cấp thiết, là khâu đột phá có ý nghĩa chiến lược. Trong thế kỷ 21, đất nước ta đang đứng trước thời cơ và vận hội, thuận lợi và thách thức vô cùng to lớn. Nếu tận dụng tốt thời cơ, hạn chế khó khăn, thử thách, đất nước ta thực hiện thành công tầm nhìn và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh và hạnh phúc mà Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định:“Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: trở thành nước phát triển, thu nhập cao”. Đây là thời điểm văn hóa Việt Nam cần được chấn hưng để tạo nền tảng nhận thức đúng đắn, đầy đủ, toàn diện về văn hóa trong mối quan hệ với phát triển, tạo động lực rất quan trọng cho phát triển bền vững thông qua khắc phục các hạn chế, tồn tại, phát triển hài hòa, đồng bộ giữa văn hóa với kinh tế - xã hội, xây dựng đời sống hạnh phúc cho nhân dân. Văn hóa có vị trí cực kỳ quan trọng, rường cột đối với sự tồn tại, phát triển bền vững của quốc gia. Văn hóa không chỉ là động lực, mục tiêu của sự phát triển, được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế và xã hội mà còn “lấy giá trị văn hóa, con người Viêt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm cho sự phát triển bền vững”. Văn hóa biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng của quốc gia, đồng thời là cốt cách, vị thế, tầm vóc của cả cộng đồng dân tộc. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định rõ: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Đối với mỗi cá nhân, văn hóa có vai trò quan trọng trong định hình nhân cách, lối sống, nếp sống, bồi đắp trí tuệ, nuôi dưỡng tâm hồn. Đối với cộng đồng, văn hóa là “sức mạnh mềm” góp phần khẳng định vị thế, hình ảnh, tầm vóc, thương hiệu của mỗi quốc gia dân tộc. Chấn hưng văn hóa là đòi hỏi khách quan, cấp thiết từ thực tiễn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khoa học công nghệ thúc đẩy nền kinh tế tri thức phát triển, không gian mạng thúc đẩy sự giao lưu mở rộng, tiếp biến văn hóa, tạo ra môi trường cho hiện tượng “xâm lăng” văn hóa. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Văn hóa chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực của sự phát triển đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn chiều hướng nặng về chức năng giải trí... Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước. Môi trường văn hóa vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực”. Nhìn nhận, đánh giá về sự phát triển kinh tế của đất nước, Đảng ta chỉ rõ: “Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức”. Đây là thời điểm quan trọng để định hướng con đường phát triển văn hóa, đó không chỉ phù hợp với truyền thống văn hóa, tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới mà còn phải đáp ứng các yêu cầu phát triển của thời đại, xứng đáng với tầm vóc, vị thế dân tộc. Quá trình chấn hưng văn hóa phải đồng bộ với chủ trương phát triển các ngành, lĩnh vực khác, phải song hành với thúc đẩy phát triển mới có thể đạt được các mục tiêu đề ra. Để thực hiện tốt quá trình này xin đề xuất một số giải pháp mang tính tổng hợp sau:
Một là, nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Chú trọng tính đặc thù của văn hóa, bảo đảm để văn hóa, văn học, nghệ thuật phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, bảo đảm sự tự do sáng tạo của cá nhân, văn nghệ sĩ. Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững đất nước. Rà soát, xem xét tổng thể các nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm theo lộ trình mục tiêu chiến lược đã được xác định cụ thể thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2030. Bảo đảm mức chi 2% cho văn hóa trong tổng mức chi ngân sách nhà nước hàng năm. Lấy văn hóa làm điểm tựa cho các chính sách kinh tế - xã hội.
Hai là, củng cố vững chắc hệ thống chính trị, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải có tinh thần đấu tranh, tranh luận có tính thuyết phục để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần có các hình thức tuyên tuyên phù hợp, sát thực tiễn làm cho đảng viên, cán bộ hiểu rõ hơn giá trị khoa học, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là những điều được vận dụng thực hiện ở Việt Nam; cấp ủy phải tiến hành thường xuyên để mỗi cán bộ, đảng viên tự nâng cao tầm hiểu biết, nhãn quan chính trị nhạy bén, vững vàng trước mọi thử thách, không rơi vào tình trạng mơ hồ về chính trị, dao động trước những diễn biến mới.
Ba là, tiếp tục cuộc đấu tranh không khoan nhượng với tham nhũng, tiêu cực từ Trung ương đến địa phương, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên ngay từ cơ sở. Thực hiện nghiêm túc những điều đảng viên không được làm.
Bốn là, tăng cường xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, khuyến khích các địa phương tổ chức các hoạt động du lịch từ văn hóa, coi việc này là hướng ưu tiên để phát triển. Xây dựng các quy tắc ứng xử chung của nghệ sĩ, góp phần tạo môi trường văn hóa lành mạnh, thúc đẩy công nghiệp văn hóa phát triển. Quan tâm đúng mức việc xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật để tạo chuyển biến cơ bản trong đào tạo cả về quy mô và chất lượng (hiện nay, nhất là ở các tỉnh, hệ thống này hầu như bị giải thể hoặc sáp nhập nên việc đào tạo cán bộ văn hóa, diễn viên, nhạc công cho địa phương rất khó khăn). Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, trọng dụng người có tài, có đức, tôn vinh xứng đáng tài năng có nhiều cống hiến cho sự phát triển văn hóa nước nhà. Chú trọng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, nhất là các môn nghệ thuật dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa thời đại. Xử lý hài hòa giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch theo hướng bền vững, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam với bạn bè quốc tế. Chú trọng hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Nắm bắt xu hướng phát triển văn hóa trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng thành tựu công nghệ số để chủ động đổi mới các hoạt động văn hoá đối ngoại, tăng cường tiềm lực phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Tăng cường xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, văn hóa đạo đức gia đình, phát huy những giá trị tốt đẹp của thuần phong mỹ tục, xây dựng môi trường văn hóa; xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong công tác lãnh đạo, quản lý; tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người Việt Nam gắn với giữ gìn, phát huy hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, khát vọng vươn lên của con người Việt Nam.
Nhìn lại chặng đường đã qua của đất nước, nhất là khoảng thời gian của gần 40 năm đổi mới, chúng ta vô cùng tự hào về những thành tựu to lớn trên nhiều mặt, thêm vững lòng vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách để đưa kinh tế đất nước đi lên. Dẫu rằng con đường đi lên CNXH còn nhiều chông gai, thử thách, song, thực tiễn đã chứng minh rõ ràng: không một lực lượng chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mong muốn của mọi người dân cũng như cán bộ, đảng viên lúc này, hơn lúc nào hết là Đảng quan tâm hơn nữa đến công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, kiên quyết công cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, loại bỏ ra khỏi đội ngũ những phần tử sâu mọt, xây dựng hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt các quyết sách mang tính chiến lược về kinh tế - xã hội để nhân dân thêm yêu Đảng, giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Chính công cuộc “đốt lò” chống tham nhũng, tiêu cực, chỉnh đốn xây dựng Đảng đã góp phần cực kỳ quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước, lấy lại niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó mới làm lan tỏa sâu sắc niềm tin của nhân dân vào con đường dân tộc ta đang đi, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đoàn kết, thống nhất cao về tư tưởng và hành động để thực hiện khát vọng đưa đất nước Việt Nam phát triển phồn vinh, nhân dân được hạnh phúc, ấm no, vững chắc đi lên CNXH như Bác Hồ muôn vàn kính yêu hằng mong đợi.
____________________
Tài liệu tham khảo:
1. Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng - Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, 267tr.
2. Nghị quyết số 03 NQ/ TƯ ngày 16/7/1998, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3. Nghị quyết số 33 NQ/TƯ ngày 9/6/2014, Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
4. Hồ Chí Minh, Về công tác tư tưởng văn hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
5. Nguyễn Phú Trọng, Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023.
6. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.
TRẦN VĂN QUANG
Nguồn: Tạp chí VHNT số 606, tháng 5-2025