Vai trò của truyền thông trong thực thi chính sách văn hóa ở Việt Nam

Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, truyền thông có sức ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội. Sự tham gia của truyền thông góp phần vào việc đảm bảo thành công hay thất bại của chu trình thực thi chính sách (TTCS) nói chung và chính sách văn hóa nói riêng. Mỗi khâu trong chu trình chính sách văn hóa đều có nhiều bên liên quan, chịu tác động rất lớn từ truyền thông trong việc phổ biến tuyên truyền chính sách hay định hướng dư luận... Bài viết đề cập đến vai trò của truyền thông trong việc phổ biến, tuyên truyền chính sách nhằm nâng cao hiệu quả của TTCS văn hóa ở Việt Nam hiện nay.

1. Truyền thông trong cuộc sống hôm nay

Loài người tồn tại trong cộng đồng với tổng thể những mối quan hệ đa dạng và phức tạp. Chính những mối quan hệ ấy là điều kiện duy trì và thúc đẩy sự vận động của xã hội loài người. Sẽ không thể có mối quan hệ giữa người với người nếu không có hoạt động giao tiếp, trong đó, chủ yếu là sự trao đổi thông tin giữa từng cá thể với nhau. Giữa cá thể với cộng đồng hay giữa cộng đồng với nhau, hoạt động giao tiếp này có vai trò vô cùng quan trọng, như là một điều kiện hàng đầu cho sự tồn tại của loài người với tính chất là một xã hội. Nhờ có sự giao tiếp mà con người hiểu biết lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm sống và liên kết, hợp tác với nhau trong lao động sản xuất, chinh phục thiên nhiên, đấu tranh xã hội. Hoạt động giao tiếp ấy được gọi là truyền thông. Như vậy, “truyền thông là sự trao đổi thông điệp giữa các thành viên hay các nhóm người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau” (1). Hiểu theo cách đơn giản nhất, truyền thông là quá trình chia sẻ thông tin - một kiểu tương tác xã hội, trong đó có ít nhất hai tác nhân tương tác với nhau, người nói và người nghe có sự trao đổi thông tin qua lại, người nghe hiểu được thông điệp của người nói, chia sẻ những quy tắc và tín hiệu chung. Hoạt động truyền thông là quá trình có sự tham gia của các yếu tố: nguồn phát, thông điệp, kênh và đối tượng tiếp nhận.

Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các loại hình, phương tiện truyền thông của loài người cũng phát triển ngày càng hiện đại và phong phú: báo chí, băng đĩa hình và âm thanh, phát thanh, truyền hình, điện ảnh… Đặc biệt, internet hiện đang nắm vị trí đứng đầu ở phương tiện truyền thông với các mạng xã hội: YouTube, Facebook, Twitter, Website… Ngày nay, phạm vi tác động của truyền thông có thể vượt qua khuôn khổ các quốc gia dân tộc, ảnh hưởng đến cả khu vực và toàn cầu. Truyền thông trở thành một nhu cầu thiết yếu của đời sống, công cụ đảm bảo cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, phương tiện hữu hiệu để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau của con người, là nhịp cầu nối liền các dân tộc, các quốc gia trên thế giới.

Các hoạt động văn hóa truyền thống luôn thu hút sự quan tâm của các cơ quan truyền thông - Ảnh: Nguyễn Thanh Hà

2. TTCS văn hóa và vai trò của truyền thông

Chính sách văn hóa

Theo UNESCO, chính sách văn hóa là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động, cách thực hành, phương pháp quản lý hành chính và phương pháp sử dụng ngân sách của Nhà nước dùng làm cơ sở cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật (2). Dựa vào định nghĩa này, Hội nghị bàn tròn các chuyên gia văn hóa tại Monaco năm 1967 đã đưa ra một quan niệm về chính sách văn hóa như sau: “Chính sách văn hóa là một tổng thể những thực hành xã hội hữu thức và có suy tính kỹ về những can thiệp hay không can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động văn hóa nhằm vào việc đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân, bằng cách sử dụng tối ưu tất cả những nguồn vật chất và nhân lực, mà một xã hội nào đó sắp đặt vào một thời điểm thích hợp” (3).

Ở Việt Nam, khái niệm chính sách văn hóa đã được xác định dựa trên các quan niệm về văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước, xây dựng con người mới của chế độ mới. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định, xây dựng văn hóa là một trong bốn trọng tâm chiến lược của Đảng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng văn hóa trở thành một trong bốn cột trụ của phát triển, bên cạnh nhiệm vụ xây dựng kinh tế, cải cách hệ thống chính trị cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới, phát triển Đảng vững mạnh. Từ đặc điểm này, các nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa: “Chính sách văn hóa là một hệ thống các nguyên tắc và thực hành của Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa nhằm phát triển và quản lý đời sống văn hóa theo những quan điểm phát triển và cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất và tinh thần sẵn có của xã hội” (4).

Như vậy, chính sách văn hóa là một thành tố quan trọng, tạo động lực cho chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung và có một ý nghĩa vô cùng to lớn nhằm sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực về con người để phát triển đất nước.

Thực thi chính sách

Tổ chức TTCS (thực hiện chính sách) là khâu thứ hai trong chu trình chính sách. Sau khi chính sách được ban hành, cần phải tiến hành các hoạt động thiết thực nhằm tổ chức đưa chính sách vào cuộc sống. Đây là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực thông qua các hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa, nhằm cụ thể hóa các mục tiêu mà chính sách đề ra. Quá trình này gồm nhiều bước có mối liên hệ hữu cơ, tác động và bổ sung cho nhau và đều hướng tới thực hiện thành công, có hiệu quả mục tiêu chính sách.

Thời gian gần đây, thay vì cách gọi phổ biến, tuyên truyền chính sách, một số nhà nghiên cứu, nhà quản lý đã dùng thuật ngữ truyền thông chính sách như là một bước trong quy trình TTCS. Khác với tuyên truyền, phổ biến, truyền thông chính sách thừa nhận rằng, đối tượng chính sách và cộng đồng xã hội không dễ chấp nhận một chiều, cũng không nên bị áp đặt, ép buộc thực hiện ngay và đầy đủ các chính sách của chính quyền các cấp. Do đó, đây không đơn thuần chỉ là truyền thông điệp một chiều từ các chủ thể để đối tượng chính sách và các bên liên quan tuân thủ chặt chẽ. Theo PGS, TS Trần Thị Thanh Thủy: “Truyền thông chính sách là hệ thống các nỗ lực chủ động chủ trì và tương tác hai chiều của Nhà nước được thiết kế có chủ đích nhằm tiếp nhận và chia sẻ thông tin về chính sách cũng như quá trình chính sách (cách thức hoạch định, thực thi, đánh giá) đến đối tượng chính sách nhằm thúc đẩy hiểu biết, phản biện, đồng thuận, sự tin cậy qua lại giữa nhà nước nói chung và các chủ thể chính sách nói riêng vì lợi ích công cộng. Như vậy, đây là các nỗ lực chủ động và cầu thị để giúp các bên liên quan hiểu biết một cách đầy đủ và kịp thời, từ đó tham gia vào quá trình chính sách một cách chủ động, tự nguyện; đồng thời thiết kế, cải thiện chất lượng chính sách và TTCS một cách hiệu quả” (5).

Vai trò của truyền thông trong TTCS văn hóa

Truyền thông chính sách là một trong các giải pháp tạo ra sự đồng thuận xã hội trong TTCS. Nếu một chính sách đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội và mong muốn của nhân dân thì nó nhanh chóng được nhân dân ủng hộ, thực hiện. Còn các chính sách không thiết thực đối với đời sống nhân dân, không phù hợp với trình độ và điều kiện của dân thì sẽ bị tẩy chay hoặc không thực hiện được. Truyền thông chính sách có tác dụng làm cho các đối tượng chính sách và toàn thể nhân dân nhận thức được vai trò của mình trong xã hội, để họ phát huy quyền làm chủ xã hội trong việc chấp hành chính sách. Truyền thông chính sách còn là hình thức công khai, mở rộng dân chủ để “người dân biết, người dân bàn, người dân làm” trong tổ chức TTCS. Thông qua đó, người dân mạnh dạn tham gia vào quản lý xã hội, tự giác chấp hành chính sách, chủ động đề xuất, kiến nghị với các cơ quan nhà nước các giải pháp thực hiện mục tiêu chính sách, các phương pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả của chính sách (6).

Mô hình truyền thông của Claude Shannon và Harold Laswell

S: Sourse (nguồn phát)

M: Message (thông điệp)

C: Chanel (kênh)

R: Receiver (người nhận)

E: Effect (hiệu quả)

N: Noise (nhiễu)

F: Feedback (kênh phản hồi).

Mô hình truyền thông của Claude Shannon và Harold Laswell đã giúp chúng ta nghiên cứu, đánh giá được vai trò, ý nghĩa của từng yếu tố, từng mối quan hệ tác động qua lại giữa các yếu tố tham gia quá trình truyền thông. Đó là điều kiện để không chỉ nhận thức rõ vai trò của truyền thông mà còn tìm ra phương pháp, cách thức tác động hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động truyền thông trong TTCS.

Thứ nhất, truyền thông là kênh tương tác giữa cơ quan TTCS (nguồn phát) với người dân (người nhận): giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và TTCS văn hóa (nguồn phát) đưa thông tin chính sách, pháp luật đến công chúng, thuyết phục công chúng thay đổi về nhận thức và thực hiện đúng chính sách, pháp luật; giúp người dân (đối tượng tiếp nhận) nắm bắt thông tin về các chiến lược, chính sách văn hóa mới của Đảng và Nhà nước một cách chính xác và kịp thời nhất, từ đó điều chỉnh ứng xử, hành vi cũng như chấp hành đúng các chủ trương, chính sách. Qua truyền thông, nhân dân có thể phản hồi nhanh nhất tới Nhà nước và các cơ quan TTCS những điểm bất cập, không phù hợp của chính sách, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.

Thứ hai, truyền thông góp phần hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước hoàn thiện chính sách. Vai trò của truyền thông không chỉ giới hạn ở việc cung cấp, trao đổi thông tin mà còn có chức năng định hướng, giáo dục đối với công chúng về các vấn đề quan trọng của chính sách. Trước những thông tin sai lệch, trái chiều (nhiễu) trong quá trình lan truyền, bằng cách tạo ra các thảo luận, phân tích ưu và nhược điểm của chính sách nào đó một cách khách quan và công bằng, truyền thông có thể chỉ ra những điểm tốt hay không tốt cho Nhà nước, người dân và các bên liên quan. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước cũng thông qua truyền thông để lấy ý kiến của dư luận, kịp thời điều chỉnh quá trình TTCS hoặc điều chỉnh, hoàn thiện các chính sách quản lý của mình để tạo ra sự đồng thuận cao trong xã hội.

Thứ ba, truyền thông là một khâu trung gian thực hiện vai trò đánh giá và giám sát TTCS. Truyền thông thực hiện các đánh giá, giám sát việc TTCS từ nhiều góc độ. Nếu các cơ quan nhà nước áp dụng chính sách không mang lại lợi ích chung đối với người dân, hay việc TTCS không đúng mục tiêu, không khách quan, minh bạch, những chỉ trích của truyền thông có thể khơi dậy sự phản đối của người dân đối với cơ quan nhà nước để thay thế chính sách, thay thế cơ quan TTCS. Ngược lại, vai trò giám sát của truyền thông nhiều khi định hướng, thu hút được sự đồng thuận cao của công chúng dành cho chính sách và TTCS.

Thứ tư, truyền thông góp phần nâng cao sự minh bạch, dân chủ của các cơ quan nhà nước và quá trình TTCS. Thông qua sự giám sát, đánh giá của truyền thông, thông qua sự phản hồi của các bên liên quan và dân chúng (trên các kênh truyền thông), các cơ quan nhà nước, cơ quan và cá nhân TTCS trở nên minh bạch hơn, nâng cao tính dân chủ cho bộ máy nhà nước nói chung, quá trình TTCS nói riêng.

Thứ năm, truyền thông góp phần nâng cao hiệu quả của TTCS. Một chính sách văn hóa hợp ý Đảng lòng dân, được tổ chức thực thi một cách khoa học, cùng với sự hỗ trợ của truyền thông hiện đại, đặc biệt truyền thông kỹ thuật số, chắc chắn sẽ nhận được sự đồng thuận của đông đảo nhân dân. Quá trình TTCS vì thế sẽ đạt được hiệu quả như mong muốn.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người, vừa tiếp thu các giá trị tiến bộ, tinh hoa của nhân loại, vừa phải bảo vệ và giữ gìn được bản sắc dân tộc. Vì vậy, truyền thông có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội nói chung, trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam nói riêng.

3. Một số giải pháp nâng cao vai trò của truyền thông trong TTCS văn hóa.

Triển khai nhiệm vụ Xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, ngày 25-6-2021, Bộ VHTTDL đã tổ chức Hội nghị Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông, báo chí của Bộ VHTTDL. Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh: “Thực tiễn đang đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới đối với công tác truyền thông, báo chí, nhất là trong bối cảnh truyền thông đa phương tiện, mạng xã hội phát triển mạnh mẽ... Báo chí của Bộ phải đổi mới, chuyển tải những thông điệp lan tỏa những giá trị cốt lõi của văn hóa, để văn hóa trở thành động lực của sự phát triển, là sức mạnh nội sinh, như lời Bác Hồ căn dặn: Văn hóa soi đường cho quốc dân đi...” (7). Qua ý kiến của Bộ trưởng, có thể thấy vai trò và nhiệm vụ đặc biệt của truyền thông với phát triển văn hóa, phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay. Vì thế, góp phần nâng cao hiệu quả TTCS văn hóa cũng chính là một nhiệm vụ quan trọng của công tác truyền thông.

Trước tiên, cần đổi mới về nhận thức. Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tổ chức TTCS cần nhận thức đầy đủ vai trò, mục đích của truyền thông đối với sự thành, bại của TTCS. Cần huy động, phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, truyền thông vào việc phổ biến chính sách; phản biện, giám sát và hoàn thiện chính sách. Làm tốt truyền thông chính sách sẽ mang lại hiệu quả cao trong tổ chức TTCS, ngược lại nếu làm không tốt sẽ có thể dẫn đến thất bại. Phát huy vai trò giám sát của truyền thông đồng thời tạo ra đồng thuận xã hội cao trong TTCS - yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của chính sách.

Thứ hai, phải đảm bảo truyền thông kịp thời, minh bạch. Các cơ quan nhà nước, cơ quan TTCS văn hóa phải chủ động cung cấp thông tin kịp thời cho các cơ quan báo chí truyền thông trong và ngoài ngành. Các văn bản hướng dẫn, quy trình TTCS phải được đăng tải rõ ràng, minh bạch trên các báo, tạp chí, các trang thông tin điện tử để các đối tượng được thụ hưởng chính sách và mọi người dân biết, bàn và giám sát kiểm tra. Minh bạch và kịp thời chính là sức mạnh của truyền thông. Truyền thông minh bạch, đúng thời điểm sẽ tránh được tình trạng tin giả, tin sai sự thật, bóp méo chính sách, tạo dư luận xấu trong xã hội.

Thứ ba, truyền thông phải chuyên nghiệp. Để TTCS văn hóa, các cơ quan, tổ chức thực thi phải có chiến lược truyền thông cụ thể: xác định đúng nội dung, phương pháp, hình thức và kênh truyền thông phù hợp. Cơ quan quản lý nhà nước cần thiết lập cơ chế phối hợp cung cấp thông tin định kỳ, đột xuất giữa các sở, ban, ngành, đoàn thể cùng cấp; mở chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền, phổ biến chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ pháp lý của đối tượng thụ hưởng chính sách, của cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tổ chức TTCS và của toàn dân trong thực hiện chính sách. Phải lựa chọn các phương pháp, hình thức phổ biến, tuyên truyền chính xác và hợp lý, phù hợp với đặc điểm của đối tượng chính sách, với điều kiện và tình hình thực tế của từng địa phương. Trong bối cảnh hiện nay, truyền thông chính sách cũng phải đổi mới, có tính cạnh tranh và hấp dẫn. Trước một “vũ trụ thông tin”, truyền thông chính sách phải có tính thời sự, trung thực khách quan, phong phú về ý tưởng, hình thức mới, tạo được sức hút với công chúng.

Thứ tư là nguồn lực con người. Nhà nước cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực truyền thông cho đội ngũ cán bộ có nhiệm vụ tổ chức TTCS. Cụ thể là phải đào tạo, trang bị cho họ các kiến thức, kỹ năng và thái độ trong xây dựng chiến lược, kế hoạch truyền thông chính sách có trọng điểm và khoa học. Đồng thời, trong chiến lược phát triển văn hóa từng giai đoạn, cần chú trọng xây dựng hệ thống báo chí, truyền thông chuyên nghiệp với đội ngũ nhà báo, văn nghệ sĩ có tâm, có tầm phục vụ cho truyền thông chính sách văn hóa nói riêng, phục vụ cho phát triển văn hóa, phát triển đất nước nói chung.

Trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, truyền thông ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội nói chung, trong TTCS văn hóa nói riêng. Trong thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động văn hóa phát triển, phù hợp với tình hình mới. Nhiều chiến lược phát triển văn hóa đã được phê duyệt, làm căn cứ để triển khai các hoạt động văn hóa trong thực tiễn. Việc nhận thức, đổi mới và nâng cao vai trò của truyền thông trong TTCS văn hóa sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của TTCS, góp phần vào sự phát triển văn hóa và sự phát triển chung của đất nước.

_______________

1. Tạ Ngọc Tấn, Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

2, 3, 4. Lê Thị Hiền, Lương Hồng Quang, Phạm Bích Huyền, Nguyễn Lâm Tuấn Anh, Giáo trình Chính sách văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014.

5. Trần Thị Thanh Thủy, Vai trò và các yêu cầu đối với truyền thông chính sách, quanlynhanuoc.vn, 5-1-2021.

6. Văn Tất Thu, Vai trò của phổ biến, tuyên truyền chính sách trong tổ chức thực hiện chính sách công, quanlynhanuoc.vn, 7-6-2021.

7. Hà Phương, Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông, báo chí của Bộ VHTTDL: Chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại, baovanhoa.vn, 25-6-2021.

ĐINH VĂN HIỂN

Nguồn: Tạp chí VHNT số 476, tháng 10-2021

;