Thực thi chính sách (TTCS) có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong chu trình chính sách. TTCS góp phần thực hiện mục tiêu chính sách, kiểm nghiệm chính sách trong thực tế, cung cấp luận cứ cho việc hoạch định, ban hành chính sách tiếp theo. Trên cơ sở tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả TTCS, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả TTCS văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
1. Vai trò của TTCS
Chu trình chính sách (Policy Process) hay quá trình chính sách được hiểu là một quá trình luân chuyển các giai đoạn từ khi hình thành chính sách đến khi đánh giá được hiệu quả của chính sách trong đời sống xã hội. Theo nhiều nhà nghiên cứu, một chu trình chính sách gồm có ba giai đoạn: hoạch định chính sách; tổ chức TTCS; phân tích chính sách.
Hoạch định chính sách là một quá trình bao gồm việc nghiên cứu, đề xuất ra một phương án chính sách với các mục tiêu, giải pháp và công cụ nhằm đạt được mục tiêu đề ra, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, ban hành chính sách đó dưới hình thức một văn bản quy phạm pháp luật. Tổ chức TTCS là trung tâm kết nối các khâu, các giai đoạn trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Đây là quá trình biến các chính sách thành những kết quả đạt được trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy nhà nước, nhằm hiện thực hóa những mục tiêu mà chính sách đã đề ra.
Để giải quyết các vấn đề bức xúc và quan trọng của xã hội đặt ra, cần hoạch định chính sách kinh tế, xã hội. Chính sách đúng nếu không được thực hiện không những không có ý nghĩa, mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách. Chính sách đúng nếu được thực hiện không đúng sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng và không đồng thuận của nhân dân đối với Nhà nước. Điều này có thể gây ra những khó khăn, bất ổn cho Nhà nước trong công tác quản lý.
Có những vấn đề trong giai đoạn hoạch định chính sách chưa bộc lộ, phải đến giai đoạn tổ chức thực thi trong thực tiễn mới phát sinh. Quá trình thực thi sẽ cho biết, chính sách có đúng, phù hợp và đi vào cuộc sống hay không, chính sách đó có được xã hội và đại đa số nhân dân chấp nhận hay không. Đưa chính sách vào hoạt động thực tiễn cũng góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Vì vậy, kết quả TTCS sẽ là thước đo, cơ sở đánh giá một cách chính xác, khách quan chất lượng và hiệu quả của chính sách. Hiệu quả TTCS vì thế cũng chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố. Làm rõ được các yếu tố này sẽ giúp các nhà hoạch định và tổ chức TTCS có kinh nghiệm để đề ra được các giải pháp hữu hiệu trong các chu trình chính sách tiếp theo.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả TTCS văn hóa
So với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa là lĩnh vực đặc thù nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quá trình sáng tạo của cá nhân và cộng đồng. Cùng với quá trình đổi mới tư duy, nhận thức về văn hóa và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, với việc hình thành nhân cách con người, hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về văn hóa của Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng được hoàn thiện, một mặt đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn, mặt khác cũng đáp ứng nhu cầu của đại đa số người dân. Bởi tính đặc thù của chính sách văn hóa, việc tổ chức thực thi, đưa chính sách văn hóa vào thực tiễn không hề đơn giản. Hiệu quả TTCS vì thế cũng chịu tác động của một loạt các yếu tố.
Các yếu tố khách quan
Môi trường chính sách, yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả TTCS, bao gồm: bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội… của quốc gia. Môi trường thích hợp sẽ có lợi cho việc TTCS. Môi trường không thích hợp sẽ cản trở việc TTCS.
Những biến động trong bối cảnh chính trị sẽ tác động tới quá trình TTCS. Một đất nước có tình hình chính trị không ổn định tất yếu sẽ gặp khó khăn trong quá trình TTCS.
Thay đổi về điều kiện kinh tế cũng tác động tới việc TTCS. Kinh tế tăng trưởng cao giúp Chính phủ đầu tư tốt hơn hoặc bớt khó khăn hơn trong việc thực thi các chính sách. Bên cạnh đó, tiềm lực kinh tế, khả năng tài chính của nhân dân càng mạnh thì biện pháp TTCS Nhà nước và nhân dân cùng làm sẽ hiệu quả hơn. Khi trình độ kinh tế phát triển, nhất là kinh tế thị trường, cùng với chính sách khuyến khích của Nhà nước đã góp phần thúc đẩy việc hình thành thị trường tiêu dùng văn hóa. Văn hóa đang dần trở thành một lĩnh vực có giá trị kinh tế, mang lại lợi nhuận cho xã hội.
Trình độ văn hóa và sự hiểu biết của người dân sẽ tạo thuận lợi cho việc TTCS và ngược lại. Với xu hướng dân chủ hóa hiện nay, nếu Nhà nước thu hút được sự tham gia và giám sát của quần chúng, của các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức phi chính phủ trong quá trình TTCS thì sẽ nhận được sự đồng thuận của nhân dân.
Vũ điệu K’ Ho ( Lâm Đồng) - Ảnh: Hà Hữu Nết
Bối cảnh quốc tế cùng với xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, các biến động kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực và thế giới cũng có tác động nhất định đến việc TTCS của mỗi quốc gia.
Hiệu quả của TTCS chịu ảnh hưởng rất nhiều vào sự tiếp nhận và ủng hộ của đối tượng chính sách. Nếu đối tượng chính sách tiếp nhận và ủng hộ thì việc TTCS sẽ thuận lợi. Đối tượng chính sách không tiếp nhận, không ủng hộ chính sách thì việc thực thi sẽ khó khăn, sẽ mất thời gian và tăng chi phí. Một chính sách được ban hành, nếu mang lại lợi ích thiết thực cho đối tượng chính sách hoặc mức độ điều chỉnh của chính sách đối với hành vi của đối tượng chính sách không lớn thì thường dễ được đối tượng chính sách tiếp nhận, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả TTCS. Ngược lại, nếu đối tượng chính sách cho rằng, chính sách đó không mang lại lợi ích cho họ hoặc ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của họ thì họ sẽ khó tiếp nhận, thậm chí cản trở việc TTCS. Vì vậy, để TTCS có hiệu quả, cần có các biện pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể của chính sách.
Các yếu tố chủ quan
Sự ảnh hưởng của chất lượng chính sách đối với hiệu quả TTCS thể hiện ở hai điểm chủ yếu:
Tính đúng đắn của chính sách: là tiền đề cơ bản cho việc thực thi có hiệu quả chính sách. Chính sách đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và sự phát triển xã hội, thể hiện lợi ích công, thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho đối tượng chính sách thì sẽ có được sự thừa nhận, ủng hộ của đối tượng chính sách, người thực thi và xã hội, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả thực thi. Chính sách đúng đắn thể hiện ở sự đúng đắn về nội dung, phương hướng cũng như việc hoạch định chính sách dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn đầy đủ.
Tính rõ ràng, cụ thể của chính sách là yếu tố then chốt để TTCS có hiệu quả, căn cứ cho hoạt động TTCS của chủ thể TTCS, cũng là cơ sở để tiến hành đánh giá và giám sát quá trình TTCS. Để quá trình thực thi thuận lợi, chính sách đó cần rõ ràng, cụ thể về phương án, mục tiêu, nguồn lực, biện pháp chính sách và các bước triển khai. Tính rõ ràng và cụ thể của chính sách còn yêu cầu mục tiêu chính sách phải khả thi và phù hợp với thực tế, có thể tiến hành so sánh và đo lường được. Phương án chính sách cần chỉ rõ các kết quả đạt được và thời gian hoàn thành. Nguồn lực chính sách huy động từ đâu và được phân bổ như thế nào. Trong TTCS, sự thiếu rõ ràng, cụ thể của chính sách sẽ dẫn đến những khó khăn trong thực hiện, từ đó ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả TTCS (1).
Hiệu quả TTCS bị tác động rất nhiều từ bộ máy và đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ tổ chức TTCS. Một chính sách đề ra hợp lý nhưng nếu bộ máy hành chính và cán bộ tổ chức thực thi kém năng lực và phẩm chất thì sẽ không thực hiện được hoặc thực hiện sai chính sách trên thực tế. Việc TTCS cũng phụ thuộc vào sự phân công, phân nhiệm rõ ràng về nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn, lợi ích của các cơ quan TTCS. Bên cạnh cơ quan chủ trì là ngành Văn hóa có trách nhiệm chính trong việc thực thi một chính sách nhất định, cần xác định rõ các cơ quan phối hợp TTCS để tạo ra một môi trường đồng bộ và ăn khớp cho việc thực thi. Bất cứ chính sách nào cũng cần dựa vào chủ thể TTCS để thực hiện. Việc người TTCS có trình độ về quản lý, chuyên môn về lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, cùng với tinh thần đổi mới, sáng tạo, trách nhiệm với công việc là điều kiện quan trọng để TTCS có hiệu quả. Trong thực tế, ở mức độ nhất định, việc TTCS không đạt mục tiêu như mong muốn là do phẩm chất và năng lực của người TTCS. Việc người TTCS thiếu tri thức và năng lực chuyên môn cần thiết, không nắm vững chính sách, không nắm được yêu cầu cơ bản của chính sách sẽ dẫn đến sự sai sót, thậm chí là sai lầm trong tuyên truyền và TTCS.
Nguồn lực cho TTCS có đầy đủ hay không cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả TTCS. Nguồn lực cho TTCS bao gồm: nguồn lực kinh phí, nguồn lực con người, nguồn lực thông tin, nguồn lực thiết bị... Theo đó, cần phân bổ kinh phí đủ mức cho TTCS; đảm bảo nhân lực TTCS cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó, cần đảm bảo nguồn thông tin đầy đủ để cơ quan TTCS xây dựng được kế hoạch hoạt động khả thi, phù hợp với thực tế cũng như kiểm tra, giám sát quá trình thực thi. Ngoài ra, còn đảm bảo nguồn lực cơ sở vật chất, trang thiết bị cho TTCS và nguồn lực quyền lực cho TTCS.
Mối quan hệ tương tác, phối hợp giữa các cơ quan và cá nhân trong TTCS nhằm mục đích làm cho các cơ quan và cá nhân có liên quan nắm rõ nội dung của chính sách cũng như kế hoạch thực thi, từ đó tạo ra sự thống nhất trong nhận thức đối với nội dung, mục tiêu và quá trình TTCS. Chủ trì thực thi một chính sách văn hóa, cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cần triển khai, phối hợp theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương để các cấp nắm bắt được mục tiêu và yêu cầu chính sách của cấp trên, còn cấp trên cũng có thể nắm bắt được tình hình triển khai thực hiện của cấp dưới. Bên cạnh đó, việc thực thi các chính sách văn hóa thường liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều cơ quan thuộc các ngành khác, vì vậy, trong quá trình thực thi, cơ quan chủ trì cần có sự tương tác, trao đổi với các sở, ban, ngành cùng cấp để phối hợp giải quyết một số vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Mức độ ủng hộ và tiếp nhận của đối tượng chính sách cũng được quyết định bởi sự tương tác giữa chủ thể TTCS và đối tượng chính sách. Do đó, việc chủ thể TTCS thông qua các kênh và phương thức khác nhau để giao tiếp - truyền đạt giúp cho đối tượng chính sách hiểu rõ nội dung, ý nghĩa và mục đích của chính sách cũng sẽ làm tăng lên sự tiếp nhận và ủng hộ của đối tượng chính sách đối với chính sách.
3. Nâng cao hiệu quả TTCS văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Thứ nhất, muốn nâng cao hiệu quả TTCS, cần nâng cao chất lượng chính sách văn hóa. Thực tế chính sách văn hóa ở Việt Nam, bên cạnh những chính sách đảm bảo chất lượng, cũng có những chính sách chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống, cần phải điều chỉnh. Quay lại chu trình chính sách, để nâng cao chất lượng chính sách, cần coi trọng quy trình hoạch định chính sách từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận, nâng cao năng lực của cơ quan hoạch định chính sách và dân chủ hóa quá trình hoạch định chính sách. Đặc biệt, cần thu hút đối tượng chính sách và người dân, các cơ quan, tổ chức liên quan vào hoạt động tư vấn, giám định và phản biện trước khi ban hành chính sách. Chẳng hạn, chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cần được hoạch định dựa trên kết quả nghiên cứu về văn hóa, phong tục tập quán của 54 dân tộc, cần có sự tư vấn, phản biện của các chuyên gia, các cơ quan nghiên cứu về văn hóa, về dân tộc, các cán bộ văn hóa ở địa phương và tiếng nói của cộng đồng các dân tộc thiểu số trên cả nước.
Thứ hai, để nâng cao hiệu quả TTCS văn hóa, cần đảm bảo đủ nguồn lực cho TTCS. Trong các Nghị quyết của Đảng, văn hóa được xác định là nội dung trọng tâm, văn hóa đi liền với phát triển. Tuy nhiên trong thực tiễn, không phải mọi chính sách văn hóa đều được đầu tư đúng mức về nguồn lực. Việc chuẩn bị nguồn lực không đầy đủ và phân bổ không phù hợp sẽ gây ra những trở ngại trong quá trình TTCS. Để đảm bảo nguồn lực cho TTCS, ngoài sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguồn lực do nhà nước đầu tư, cần thực hiện xã hội hóa tối đa để có thêm nguồn lực cho TTCS. Có thể huy động những nguồn lực (nhân lực, vật lực, kinh phí...) từ các địa phương, khai thác sự tài trợ của các tổ chức quốc tế và các chính phủ, vận động nguồn lực từ các doanh nghiệp, trong nhân dân nhằm giảm bớt chi phí từ ngân sách nhà nước. Nguồn kinh phí cũng cần phân bổ và sử dụng đúng mục đích. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng kinh phí và đánh giá hiệu quả.
Thứ ba, để TTCS văn hóa có hiệu quả, cần tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ TTCS đúng thẩm quyền, chức năng, đúng chuyên môn. Cần khắc phục tình trạng phân tán về nguồn lực, quyền lực và trách nhiệm không rõ trong TTCS văn hóa. Giao cho cơ quan hành chính các cấp và hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa theo ngành dọc là bộ máy chủ trì thực thi các chính sách văn hóa. Tổ chức thực hiện một cách khoa học, phân công trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân liên quan; xác định người chịu trách nhiệm chính và những người tham gia phối hợp trong quá trình tổ chức TTCS. Trong phân công nhiệm vụ, cần chú ý đến năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, đúng người đúng việc, tránh tình trạng chồng chéo nhiệm vụ và không rõ trách nhiệm.
Thứ tư, cần làm rõ trách nhiệm và tăng cường phối hợp giữa các bên trong TTCS. Việc chưa phân định rõ trách nhiệm và phối hợp giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các cơ quan cùng cấp với nhau, giữa cơ quan TTCS với đối tượng chính sách cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu quả TTCS hiện nay chưa cao. Do đó, để góp phần nâng cao hiệu quả TTCS, cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cấp trên cần tăng cường mối liên hệ, kiểm tra, giám sát điều chỉnh đối với hoạt động TTCS của cấp dưới; thông qua nhiều biện pháp để tăng cường sự trao đổi và phối hợp với các cơ quan, tổ chức đoàn thể cùng cấp để tránh sự chồng chéo, trùng lặp về nhiệm vụ, trách nhiệm.
Thứ năm, để nâng cao hiệu quả TTCS, cần tăng cường sự tiếp nhận và ủng hộ của đối tượng chính sách thông qua việc: đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của đối tượng chính sách; tăng cường sự tham gia của đối tượng chính sách trong quá trình hoạch định chính sách hay ban hành kế hoạch TTCS; đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền chính sách… Thực tiễn cho thấy, khi nào có được sự đồng thuận và ủng hộ của đông đảo người dân thì chính sách văn hóa được triển khai thuận lợi cũng như việc TTCS mang lại hiệu quả cao. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách rất quan trọng. Bằng nhiều biện pháp và nguồn lực khác nhau, phải làm sao để các nhà tổ chức TTCS, các lực lượng tham gia, các đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách và các tầng lớp nhân dân đều có thể hiểu, thực hiện và kiểm tra chính sách. Chẳng hạn, chủ trương “xã hội hóa” hoạt động văn hóa đã nhận được sự đồng thuận của nhân dân, vì thế thu được những kết quả thiết thực. Xã hội hóa được coi là một trong những giải pháp quan trọng nhằm thu hút các nguồn lực xã hội, các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động sáng tạo, cung cấp và phổ biến sản phẩm văn hóa, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hóa phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, nâng cao dần mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Văn hóa bao gồm tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội, do đó, đối tượng tác động của chính sách văn hóa rất rộng. Nâng cao hiệu quả TTCS cũng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát để có những phát hiện, điều chỉnh, khắc phục, xử lý kịp thời những hạn chế, sai phạm (nếu có) trong chu trình chính sách. Đồng thời, thông qua đó để phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa, thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
THS ĐINH VĂN HIỂN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 473, tháng 9-2021