Nội dung của bài viết nhằm phân tích thực trạng phát triển sản phẩm du lịch biển tỉnh Bến Tre, những tồn tại của việc phát triển sản phẩm du lịch biển trong thời gian qua; đề xuất giải pháp phù hợp với lợi thế và năng lực cạnh tranh của sản phẩm du lịch biển địa phương. Kết quả nghiên cứu cho thấy các giải pháp phát triển sản phẩm du lịch biển được đề xuất không những góp phần giúp du lịch biển các tỉnh miền Tây Nam Bộ nói chung và tỉnh Bến Tre nói riêng phát triển, mà còn hướng đến việc không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về khai thác sản phẩm du lịch biển trong tương lai gần.
Các giảng viên NTTU, các đại biểu tham gia đoàn Famtrip khảo sát du lịch biển huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre - Ảnh: Trần Thiên An
Bến Tre là tỉnh có đường bờ biển dài gần 65km, với các bãi biển hoang sơ nằm dọc tại địa phận các huyện như: Thạnh Phú, Ba Tri, Bình Đại. Theo quy hoạch của tỉnh Bến Tre, du lịch biển đang được đầu tư và phát triển với nhiều dự án và các công trình hỗ trợ du lịch. Bến Tre là tỉnh thứ 22 của cả nước và là tỉnh thứ 7 của vùng đồng bằng sông Cửu Long đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tỉnh Bến Tre giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, toàn tỉnh Bến Tre có 23 dự án ưu tiên mời gọi đầu tư du lịch.
Theo Cục Thống kê Bến Tre, trong quý I năm 2023 doanh thu du lịch lữ hành đạt 14,91 tỷ đồng, tăng mạnh so với cùng kỳ các năm trước do dịch COVID-19. Hiện nay, do tình hình dịch bệnh đã được kiểm soát nên thị trường du lịch Bến Tre đang trên đà khôi phục và có những bước tiến đáng kể. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ khác xoay quanh và liên kết với du lịch cũng có các bước phát triển nổi bật. Doanh thu dịch vụ du lịch quý I năm 2023 đạt 1.126,34 tỷ đồng, so cùng kỳ năm trước tăng 11,79%, trong đó: dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ đạt 73,07 tỷ đồng, tăng 30,14%; dịch vụ nghệ thuật vui chơi giải trí đạt 732,10 tỷ đồng, tăng 10,54%.
Có thể nói, tiềm năng du lịch biển của tỉnh Bến Tre phát triển dựa trên lợi thế dư địa, vốn sẵn có. Nhưng việc tập trung nghiên cứu và phát huy lại chưa được đầu tư một cách thực sự nghiêm túc và chuyên sâu, đặc biệt là trong giai đoạn vừa khôi phục sau ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 và bước vào giai đoạn vươn mình phát triển trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn. Yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện tại là cần có sự nghiên cứu, điều tra, tìm hiểu, đánh giá các tiềm năng của du lịch biển Bến Tre nhằm đưa ra các giải pháp mang tính ứng dụng cao, góp phần khắc phục điểm yếu và phát triển bền vững sản phẩm du lịch biển tỉnh Bến Tre.
1. Thực trạng phát triển sản phẩm du lịch biển tỉnh Bến Tre
Cở sở vật chất kỹ thuật du lịch
Trong những năm qua, hệ thống cơ sở lưu trú của Bến Tre không ngừng phát triển và cải thiện. Hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ và homestay đã và đang được cải tạo và phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng. Việc cơ sở lưu trú phát triển, đã góp phần to lớn vào quá trình giải quyết nhu cầu lưu trú cho du khách. Đặc biệt là trong các dịp lễ hội hay sự kiện du lịch.
Cơ sở phục vụ ăn uống như: nhà hàng, quán ăn, cửa hàng ẩm thực, điểm dừng chân… đã và đang được đầu tư phát triển. Về nhà hàng, theo tác giả tổng hợp được từ trang bentretourism.vn, thì tỉnh Bến Tre có 12 nhà hàng đạt chuẩn, 6 quán ăn, 5 khu ẩm thực đường phố, 2 cửa hàng ăn vặt và nhiều cơ sở ẩm thực của người dân địa phương. Đặc biệt, tại Bến Tre, mô hình phục vụ ẩm thực kết hợp giải trí, ví dụ nhà hàng kết hợp quầy bar, cà phê, ngoài ra hầu hết các cơ sở lưu trú có chất lượng tốt tại Bến Tre điều có phòng ăn, hoặc không gian ẩm thực cho du khách.
Cơ sở vui chơi - giải trí: Bến Tre là một trong những tỉnh có nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú, do đó hầu hết các loại hình vui chơi giải trí tại nơi đây thường có xu hướng gắn liền với thiên nhiên. Bên cạnh đó, các dịch vụ giải trí kết hợp văn hóa cũng được quan tâm duy trì và phát triển với nhiều câu lạc bộ văn nghệ, khu văn hóa tập thể, các chương trình văn hóa thường niên, lễ hội… cũng thu hút lượng lớn du khách đến tham gia và trải nghiệm.
Phương tiện vận chuyển: hệ thống phương tiện vận chuyển du khách trên địa bàn tỉnh Bến Tre rất đa dạng và phong phú, tập trung chủ yếu là phương tiện đường thủy và đường bộ, như: tàu, thuyền, ghe... Mỗi đơn vị hoạt động kinh doanh du lịch sẽ đầu tư phương tiện vận chuyển phù hợp với điều kiện hiện có. Các phương tiện vận chuyển phục vụ du lịch đều phải trải qua kiểm tra, đánh giá, bảo dưỡng định kỳ, để luôn sẵn sàng phục vụ du khách. Về mặt phương tiện công cộng, hệ thống giao thông này cũng được đầu tư và phát triển ổn định trên địa bàn tỉnh.
Thực trạng sản phẩm du lịch biển
Theo kế hoạch số 1729/KH-UBND, tỉnh Bến Tre đã chủ trương thực hiện việc phát triển du lịch cộng đồng kết hợp với các loại hình sản phẩm du lịch, tài nguyên du lịch hiện có của mỗi huyện trong địa bàn, trong đó yếu tố du lịch biển được xem như một loại hình du lịch được quan tâm phát triển tại các khu vực huyện giáp biển.
Theo đó, tại địa bàn 3 huyện giáp biển của tỉnh Bến Tre là Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú sẽ phát triển các loại hình du lịch gắn với biển kết hợp với du lịch cộng đồng. Cụ thể:
Đối với huyện Ba Tri: tỉnh quy hoạch mở rộng loại hình du lịch cộng đồng, tuy nhiên với khu vực ven biển, yếu tố du lịch cộng đồng sẽ được giảm dần, thay vào đó là các hoạt động của du lịch biển. Trong quá trình hoạt động du lịch, tỉnh tăng cường kết hợp du lịch với nuôi trồng thủy hải sản, các điểm làm muối, các khu sinh thái trong khu vực gần biển để gia tăng tính đa dạng cho du lịch biển. Ngoài ra, việc tham quan các khu vực có điện gió tại một số xã như: Tân Mỹ, Bảo Thuận, An Thủy… cũng sẽ được tạo điều kiện đầu tư và sớm đưa vào hoạt động du lịch.
Đối với huyện Bình Đại: nơi đây sẽ được đầu tư phát triển các loại hình du lịch biển gắn với cộng đồng địa phương, như nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, tham quan rừng ngập mặn và các làng nghề làm muối. Hoạt động du lịch biển của Bình Đại sẽ tập trung tại Thạnh Phước và Thới Thuận.
Đối với huyện Thạnh Phú: du lịch biển Thạnh Phú đã có từ lâu, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế về quản lý. Do đó, tỉnh chủ trương thực hiện quy hoạch và đầu tư một cách chuyên nghiệp để đưa mô hình du lịch cộng đồng và du lịch biển gắn kết với nhau tại nơi đây. Đặc biệt, là tại địa bàn xã Thạnh Phong, Thạnh Hải nơi có những con đường chính dẫn ra cồn Bửng. Ngoài ra, tỉnh cũng đầu tư nhân rộng mô hình du lịch cộng đồng và du lịch biển tại các xã khác của huyện Thạnh Phú như: Đại Điền, Phù Khánh, Bình Thạnh...
Thực trạng nguồn nhân lực du lịch
Về phía lao động trong ngành Du lịch tỉnh Bến Tre trong năm 2021 có nhiều biến động do ảnh hưởng của hậu COVID-19. Tuy nhiên, từ năm 2021 về sau, số lượng lao động đã khôi phục lại, tuy vẫn chưa thể khôi phục hoàn toàn nhưng thực trạng lao động ngành Du lịch của Bến Tre đang phát triển theo chiều hướng tích cực. Song, khi nhìn vào lượng lao động ngành Du lịch dịch vụ với số lượng tổng toàn bộ nhóm ngành, thì lao động dịch vụ của tỉnh Bến Tre chiếm tỷ trọng không quá 10% theo từng năm.
Trong năm 2022, lực lượng lao động tại tỉnh Bến Tre đạt 785.025 người, tăng hơn 10.000 người so với lao động năm 2021. Tỷ lệ lao động thành thị chiếm 9,2%, trong khi đó khu vực nông thôn vượt trội hoàn toàn chiếm 90,8% tỷ lệ lao động. Trong tổng số 785.025 người đủ độ tuổi lao động, thì có 772.229 người đang làm việc tăng hơn 11.000 người so với năm 2021. Trình độ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 12,1%, khu vực thành thị chiếm 25,9%, khu vực nông thôn đạt 9,2%.
Thực trạng doanh thu du lịch lữ hành
Đối với doanh thu về lĩnh vực lữ hành của tỉnh Bến Tre từ giai đoạn 2018-2022 có nhiều biến động. Tính từ năm 2018-2019, doanh thu lữ hành có xu hướng tăng và luôn giữ ổn định trên 60 tỷ mỗi năm. Tuy nhiên, đến giai đoạn dịch bệnh COVID-19 bùng nổ và kéo dài từ 2019-2021, thì doanh thu lữ hành của Bến Tre suy giảm nghiêm trọng, cụ thể là giảm hơn 50% doanh thu du lịch của tỉnh Bến Tre. Đến năm 2022, doanh thu du lịch của Bến Tre đã được khôi phục rất nhiều nhờ vào các biện pháp kích cầu du lịch. Khi thu nhập từ du lịch tăng lên cũng góp phần cải thiện được thu nhập cho người dân địa phương.
Doanh thu của hạng mục lưu trú và ăn uống là nhóm doanh thu nhiều nhất trong lĩnh vực du lịch của tỉnh Bến Tre. Trong đó, doanh thu từ ăn uống chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều lần so với doanh thu từ lưu trú. Tổng doanh thu của lưu trú và ăn uống trong năm 2022 là 5.561 tỷ, tăng 168,76% so với cùng kỳ năm trước, đây là con số rất khả quan nếu so sánh với khoản thời gian chịu ảnh hưởng của COVID-19. Về khía cạnh các loại dịch vụ khác, trong năm 2022 đạt 7.125 tỷ đồng, tăng 20,46% so với năm 2021.
Thực trạng khách du lịch biển tại tỉnh Bến Tre
Theo kết quả điều tra về thời gian lưu trú của khách du lịch biển ở tỉnh Bến Tre, tỷ lệ lưu trú trong vòng một ngày chiếm ưu thế, đạt 80,7%, thể hiện rằng đa số du khách đến đây thường chọn lựa chuyến đi trong ngày hoặc ghé qua trong ngày thay vì lưu trú qua đêm. Tuy nhiên, với việc tỷ lệ lưu trú giảm dần khi thời gian lưu trú tăng lên, đã chỉ ra rằng cơ sở lưu trú và các điểm tham quan, dịch vụ giải trí tại Bến Tre chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của du khách muốn trải nghiệm lâu dài. Đặc biệt, thấp hơn nữa là tỷ lệ lưu trú ở 2 ngày, 3 ngày và trên 3 ngày, chỉ là 16,6%, 1,2% và 1,5%.
Nghiên cứu cũng chỉ ra cơ sở lưu trú ven bãi biển và các điểm tham quan du lịch chưa đáp ứng đầy đủ mong đợi của du khách và dịch vụ giải trí về đêm còn thiếu sự hấp dẫn. Điều này đặt ra một thách thức quan trọng trong việc phát triển và cải thiện cơ sở vật chất, dịch vụ để tăng cường khả năng giữ chân và thu hút du khách lâu dài. Đồng thời, yêu cầu nâng cao chất lượng và độ đa dạng của các trải nghiệm du lịch để tạo ra một điểm đến đủ hấp dẫn và đáp ứng đa dạng nhu cầu của du khách trong nước và quốc tế.
Kết quả điều tra về tần suất đến và xu hướng của du khách đến tham quan, trải nghiệm du lịch biển Bến Tre cho thấy thực trạng tần xuất khách du lịch đến đây rất đa dạng. Lần đầu chiếm tỷ lệ lớn nhất với 39,4%, nhưng có sự giảm dần đáng kể qua các lần tiếp theo, lần thứ hai chiếm 36,3%, lần thứ ba trở lên là 24,3%. Xu hướng giảm dần này phản ánh nhu cầu khám phá và đổi mới trong lựa chọn địa điểm du lịch của du khách. Nếu không có sự đổi mới sản phẩm du lịch biển, thì tỉnh Bến Tre khó có thể giữ chân du khách trong và ngoài nước.
Kết quả điều tra về mục đích của khách du lịch đến Bến Tre đã mô tả một bức tranh đa dạng về lý do du khách đến thăm khu vực này. Điểm nổi bật nhất là mục đích thưởng thức sản vật, văn hóa chiếm tỷ lệ cao nhất với 50,6%, cho thấy sự quan trọng của biển Bến Tre trong việc thu hút các đoàn khách có nhu cầu trải nghiệm ẩm thực địa phương.
Kết quả điều tra về chi tiêu của khách khi đến Bến Tre, thì đa số du khách (75,3%) chi tiêu dưới 3 triệu đồng, đây là mức chi phổ biến và chiếm đa số trong tổng số du khách của du lịch biển Bến Tre. Điều này có thể chỉ ra du lịch Bến Tre đang thu hút một lượng lớn du khách có kinh tế trung bình và thấp, có xu hướng tiêu dùng với ngân sách hạn chế.
2. Giải pháp phát triển sản phẩm du lịch biển tỉnh Bến Tre
Giải pháp về chất lượng cơ sở vật chất, kỹ thuật du lịch
Hoàn thiện và nâng cấp cơ sở hạ tầng: các công trình giao thông phục vụ du lịch như cơ sở hạ tầng giao thông du lịch sinh thái Hưng Phong - Giồng Trôm, Cái Mơn - Chợ Lách, xã ven sông Tiền ở huyện Châu Thành, xã Thạnh Phong và xã Thạnh Hải ở huyện Thạnh Phú đều nhận được sự chú ý đặc biệt. Việc tập trung vào các dự án này sẽ giúp nâng cao trải nghiệm du lịch, tăng cường khả năng tiếp cận các điểm đến du lịch đặc sắc của tỉnh. Trước hết, tập trung vào việc hoàn thiện các công trình giao thông như đường Hưng Phong - Giồng Trôm và Cái Mơn - Chợ Lách đã tạo ra những tuyến đường thuận tiện, giúp du khách dễ dàng di chuyển giữa các điểm đến du lịch và các khu vực ven biển. Điều này không chỉ tối ưu hóa trải nghiệm du lịch mà còn giúp tăng cường sự thuận tiện và hấp dẫn của các bãi biển địa phương.
Các dự án cơ sở hạ tầng giao thông du lịch tại xã ven sông Tiền và huyện Thạnh Phú cũng đóng góp vào việc mở rộng quy mô và cải thiện chất lượng của các khu du lịch biển. Việc nâng cấp hạ tầng này không chỉ hỗ trợ sự phát triển bền vững của ngành Du lịch mà còn tạo ra cơ hội mới cho việc khám phá và trải nghiệm vẻ đẹp tự nhiên của bờ biển Bến Tre. Bên cạnh đó, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông ở các xã Thạnh Phong, Thạnh Hải cũng góp phần vào việc kết nối mạng lưới du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho du khách muốn khám phá vùng biển Bến Tre.
Giải pháp về nâng cao chất lượng của các dịch vụ du lịch biển
Cần chủ động nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm tăng tính trải nghiệm của du khách cũng như tạo giá trị riêng cho du lịch biển tỉnh Bến Tre. Đầu tiên, để bảo vệ môi trường và tăng cường an toàn cho du khách, phải thường xuyên kiểm tra và bảo dưỡng các phương tiện tham quan như tàu thuyền, ca nô. Đặc biệt, việc tạo bến neo đỗ riêng, độc lập với các bến tàu cá, không chỉ giúp du khách trải nghiệm thoải mái, mà còn đảm bảo an toàn và vệ sinh môi trường biển.
Nâng cao trình độ chuyên môn của nhân viên tại các địa điểm cung cấp dịch vụ tham quan là một yếu tố quan trọng. Việc đồng đều hóa chất lượng phục vụ không chỉ tạo ấn tượng tích cực, mà còn thúc đẩy sự chuyên nghiệp trong ngành Du lịch. Đào tạo bài bản qua các trường lớp không chỉ vững tay nghề mà còn giúp nhân viên nắm bắt các kỹ thuật mới và ứng phó linh hoạt với các tình huống khó khăn.
Để nâng cao chất lượng dịch vụ, Bến Tre cần mang đến cho du khách trải nghiệm đa dạng. Sự đa dạng về loại hình phương tiện như du thuyền, thuyền ván, thuyền thúng, thuyền hơi… không chỉ tăng cường tính hấp dẫn mà còn đáp ứng nhu cầu và mong muốn khác nhau của du khách, từ người yêu thư giãn đến những người muốn trải nghiệm mạnh mẽ. Giải pháp này giúp tối đa hóa trải nghiệm của nhiều đối tượng du khách nhất có thể.
Giải pháp đa dạng hóa sản phẩm du lịch biển tỉnh Bến Tre
Chiến lược đa dạng hóa sản phẩm du lịch và áp dụng chiến lược chất lượng cao có thể thúc đẩy sự đa dạng của các trải nghiệm du lịch. Việc phát triển các chương trình tour đặc sắc, kết hợp linh hoạt giữa các dịch vụ và tiện ích, cũng như tạo ra các gói ưu đãi cho du khách là những yếu tố quan trọng. Đồng thời, quản lý chất lượng và đào tạo nguồn nhân lực trong ngành Du lịch là chìa khóa để đảm bảo sự hài lòng của du khách và xây dựng uy tín thương hiệu. Đặc biệt, chú trọng vào việc phát triển các sản phẩm du lịch liên quan đến cây dừa và văn hóa địa phương.
Về mặt đa dạng hóa sản phẩm cho khách du lịch nội địa, Bến Tre chú trọng đầu tư vào việc phát triển sản phẩm du lịch biển kết hợp với du lịch cộng đồng, bên cạnh đó, các sản phẩm như du lịch miệt vườn làng quê, du lịch tham quan, nghiên cứu, du lịch văn hóa, lễ hội, làng nghề, du lịch nghỉ cuối tuần cũng cần được xem xét kết hợp với du lịch biển để có thể tăng tính đa dạng cho trải nghiệm của du khách.
Đối với thị trường du lịch quốc tế, Bến Tre cần đưa ra các chiến lược đầu tư tập trung vào các sản phẩm du lịch biển kết hợp như du lịch sinh thái miệt vườn, du lịch làng quê, du lịch sông nước, du lịch tham quan, và đặc biệt là việc kết nối các tour với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long. Điều này không chỉ giúp tạo ra những trải nghiệm độc đáo mà còn thúc đẩy hợp tác du lịch quốc tế, nâng cao vị thế của Bến Tre trên bản đồ du lịch thế giới.
Giải pháp về sự tham gia của cộng đồng địa phương
Tuyên truyền và nâng cao nhận thức xã hội về vai trò của du lịch biển cho người dân. Tổ chức buổi hội thảo, buổi nói chuyện chuyên đề và giáo dục ý thức cho người dân ở các vùng ven biển như Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú là rất quan trọng. Điều này giúp tạo ra sự nhận thức về vai trò quan trọng của họ trong phát triển du lịch, cũng như lợi ích chung mà họ có thể đạt được khi tham gia vào việc phát triển du lịch địa phương.
Thiết lập Ban Quản lý du lịch trong mỗi cộng đồng dân cư. Điều này giúp tổ chức hoạt động du lịch một cách hiệu quả hơn, phân bổ nguồn lực một cách bền vững và đưa ra tiêu chí phục vụ khách. Quan trọng nhất là phối hợp với chính quyền và các công ty du lịch để xây dựng sản phẩm du lịch tốt, đồng thời tránh khai thác tài nguyên quá mức, bảo đảm quyền lợi của từng thành viên trong cộng đồng.
Tạo chiến lược khuyến khích sự tham gia của người dân thông qua việc hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi. Điều này có thể bao gồm chiến lược khuyến khích người dân phát triển các giá trị văn hóa, nghệ thuật và nghề thủ công truyền thống để phục vụ du khách.
Giải pháp về giá cả dịch vụ du lịch biển
Để đảm bảo sự phát triển bền vững và tích cực cho du lịch biển Bến Tre, các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch cần thiết lập sự liên kết và công khai hệ thống giá cả. Việc này sẽ ngăn chặn tình trạng độc lập tự quyết định giá và giữ cho giá cả ổn định, tránh tình trạng “chặt chém” và ép giá đối với du khách, đặc biệt là trong mùa cao điểm. Bên cạnh đó, việc niêm yết giá công khai và bán đúng giá niêm yết sẽ tạo niềm tin và tin cậy từ phía du khách.
Cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà quản lý du lịch và chính quyền địa phương để triển khai các biện pháp kiểm tra, kiểm soát và kê khai giá cả dịch vụ. Việc tuyên truyền thông tin và tổ chức các hoạt động kiểm tra sẽ giúp đảm bảo tính minh bạch, công bằng trong hoạt động kinh doanh du lịch. Đồng thời, các doanh nghiệp du lịch cũng sẽ tự có ý thức tuân thủ chương trình du lịch đã ký kết, đảm bảo chất lượng dịch vụ để tạo ấn tượng tích cực cho du khách.
Giải quyết các vấn đề về giấy phép và quản lý giá dịch vụ cho du khách. Các ban quản lý và chủ khu du lịch cần công khai thông tin liên lạc để có thể giải quyết kịp thời mọi phản ánh của du khách, đảm bảo an toàn và sự hài lòng trong hành trình du lịch của họ. Những biện pháp này không chỉ giúp du lịch biển tỉnh Bến Tre phát triển bền vững mà còn tạo ra trải nghiệm tích cực cho du khách, thúc đẩy sự phát triển của ngành Du lịch trong cộng đồng.
Giải pháp về xúc tiến, quảng bá và đầu tư sản phẩm du lịch biển phát triển phía Đông ở Bến Tre
Trong công tác xúc tiến quảng bá, Bến Tre cần tập xung xây dựng và vận hành được hệ thống truyền thông mạng xã hội trên nhiều nền tảng, như: Facebook, TikTok, YouTube... Đây là những nền tảng hiện đại thu hút được một lượng truyền thông lớn. Các công cụ này dùng để cập nhật những thông tin về điểm đến biển Bến Tre như: giá cả hải sản, giờ thủy triều lên xuống, thời tiết, an toàn an ninh xã hội... Việc tận dụng hiệu quả các nền tảng xã hội và đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ là chìa khóa cho hoạt động phát triển bền vững sản phẩm du lịch biển của tỉnh Bến Tre nói riêng và du lịch biển các tỉnh Tây Nam Bộ nói chung.
________________
Tài liệu tham khảo
1. Mai Hải An, Mô hình nghiên cứu sự hài lòng của du khách đối với các điểm đến du lịch biển Quảng Ninh, Tạp chí Công Thương, số 8, 2022, tr.274-279.
2. Ninh Thị Kim Anh, Đo lường sự hài lòng của du khách Trung Quốc đối với chất lượng dịch vụ du lịch biển đảo Nha Trang - Khánh Hòa, Tạp chí Công Thương, số 7, 2017, tr.106-111.
3. Nguyễn Thị Chiên, Văn hóa biển đảo với phát triển du lịch bền vững ở Hải Phòng, Tạp chí Khoa học, số 27, 2018, tr.30-36.
4. Lê Chí Công, Đồng Xuân Đảm, Nghiên cứu ảnh hưởng của ẩm thực địa phương đến sự hài lòng của du khách: Trường hợp khách du lịch quốc tế đến du lịch biển tại Nha Trang, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 224, 2016, tr.88-99.
5. Đào Ngọc Cảnh, Nguyễn Kim Hồng, Thực trạng và giải pháp phát triển du lịch biển - đảo thị xã Hà Tiên, Tỉnh Kiên Giang, Tạp chí Khoa học, số 2, 2017, tr.128-139.
6. Lê Khánh Cường, Phát triển du lịch biển theo hướng bền vững tại thành phố Sầm Sơn, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 309, 2021, tr.106 -109.
7. Lê Doãn Dương, Hoàn thiện quản lý nhà nước về hoạt động du lịch biển Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 251, 2016, tr.84-85.
VÕ THÀNH ĐẠT - TS NGUYỄN PHƯỚC HIỀN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 563, tháng 3-2024