Nhịp thở đầm Phá - Ảnh: Lê Ngọc Huy
Là loại hình văn hóa thị giác phản ánh đời sống một cách trực tiếp, nhanh nhạy và duy nhất có khả năng lưu giữ và phổ biến nhanh kết quả sáng tạo, nửa thế kỷ qua kể từ năm 1975, thống nhất đất nước cho đến nay, nhiếp ảnh đã tác động tích cực đến sự phát triển của văn hóa dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng gặp phải thách thức bởi sự phát triển nhanh về kỹ thuật chế tạo máy ảnh, về khả năng thu hình, công nghệ làm hình ảnh. Với loại hình nghệ thuật này, chất lượng thiết bị ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp cận hiện thực và năng lực phổ biến tới cuộc sống. Các giai đoạn phát triển của nhiếp ảnh cũng được ghi nhận qua những mốc lịch sử, tương tự như các loại hình văn nghệ khác.
Giai đoạn 1975-1985, nhiếp ảnh mở rộng không gian từ miền Bắc ra cả nước, đồng thời mở rộng đề tài: ngoài chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn có khắc phục hậu quả chiến tranh; ngoài các nhân vật truyền thống như bộ đội, công nhân, nông dân, còn có trí thức và doanh nhân.
Người chụp ảnh vẫn chủ yếu là lực lượng cũ, trong đó hơn 90% là nhà nhiếp ảnh thuộc các cơ quan báo chí, văn hóa. Họ là lực lượng nòng cốt, tiếp tục tham gia chiến trường Campuchia và chiến tranh biên giới phía Bắc sau ngày thống nhất. Do tập trung cho nhiệm vụ tuyên truyền, Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam thành lập khá muộn (12-1965) và phải hơn 20 năm sau mới tổ chức được Đại hội lần thứ hai. Mãi đến mười năm sau ngày giải phóng miền Nam, hoạt động nhiếp ảnh mới có sự tập hợp cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Sương sớm trên đồi cỏ cháy Ba Quáng - Ảnh: Nguyễn Phước Hoài
Những thành tựu lớn, quan trọng
Đại hội lần thứ hai của Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam năm 1985 là cuộc tập hợp có tổ chức lần đầu của giới nhiếp ảnh. Đại hội bàn và thống nhất nhiều vấn đề lớn: Tổ chức các đơn vị cơ sở như thế nào để thực hiện tốt nhiệm vụ là phản ánh đất nước và vẻ đẹp con người Việt Nam cho đúng? cho hay? và tuyên truyền ra nước ngoài như thế nào?, trong đó các cuộc thi sáng tác ảnh hằng năm cấp toàn quốc và cấp tỉnh là một trong những nội dung quan trọng. Đại hội đã bầu ra Ban Lãnh đạo Hội gồm những nhà nhiếp ảnh tiêu biểu cho các miền, các khu vực, thành phố lớn.
Qua nhiều lần đại hội, các ban chuyên môn của Hội đã được củng cố, tăng cường cùng với nâng cấp bản tin nhiếp ảnh thành tạp chí chuyên ngành, nhiếp ảnh đã dần có vị trí trong giới văn nghệ Việt Nam. Các cuộc thi ảnh đã góp phần tăng nhanh số lượng hội viên của Hội. Khi thành lập chỉ có hơn 70 người, tới đại hội III đã có gần 200 người và đến nay, đã có hơn 1.000 người là hội viên gồm 3 thế hệ hoạt động: thế hệ nhiếp ảnh chống Mỹ, thế hệ thời mở cửa và lớp nhiếp ảnh trẻ được đào tạo khá cơ bản tại các trường đại học.
Sự đổi mới, mở cửa là điều kiện để nhiếp ảnh tăng thêm nội dung hoạt động, tham gia vào các tổ chức nhiếp ảnh nước ngoài, được Trung ương đồng ý lấy ngày 15/3 là Ngày truyền thống Nhiếp ảnh Việt Nam, ghi nhận danh nhân Đặng Huy Trứ là Ông tổ của nhiếp ảnh, thành lập Trung tâm triển lãm và lưu trữ nhiếp ảnh quốc gia, cùng với Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội đào tạo nhiếp ảnh ở bậc đại học.
Hiện nay, các liên hoan ảnh khu vực và cuộc thi ảnh toàn quốc do Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam phối hợp với Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm (Bộ VHTTDL), cùng các tập đoàn và địa phương tổ chức, đã thu hút hàng nghìn người tham gia. Từ khi Việt Nam gia nhập Liên đoàn Nhiếp ảnh Nghệ thuật Thế giới (FIAP) năm 1996, cứ hai năm một lần đều tổ chức thi ảnh quốc tế, quy tụ đông đảo nhiếp ảnh gia trong và ngoài nước. Ngoài ra, Hội còn phối hợp tổ chức nhiều cuộc thi lớn với Báo Nhân Dân, Bộ Công an, Hội Nhà báo Việt Nam, Ban Tổ chức Trung ương, Quốc hội… Các hội viên uy tín ở cả ba miền thường xuyên tham gia hội đồng giám khảo và tuyển chọn tác phẩm báo chí, nhiếp ảnh, nghệ thuật.
Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng trong đời sống nhiếp ảnh cả nước, phần lớn nhờ sự năng động của Hội và việc kịp thời tiếp nhận các kỹ thuật mới du nhập vào Việt Nam.
Trước năm 1975, máy ảnh là vật dụng xa xỉ, chủ yếu có trong các cơ quan báo chí, tuyên truyền. Ngày nay, việc chụp ảnh đã trở thành phổ biến, với máy ảnh kỹ thuật số hiện đại và điện thoại di động trở thành phương tiện ghi hình, giải trí quen thuộc. Từ nhiều thập kỷ qua, các hãng sản xuất lớn đã sớm có mặt và kinh doanh tại Việt Nam. Nếu trước đây Việt Nam còn cách xa các nước phát triển về trang bị và sử dụng thiết bị chụp, thì nay đã bắt kịp, thậm chí nằm trong nhóm quốc gia có mức độ ứng dụng nhiếp ảnh cao trong đời sống.
Thăm bếp người Mông - Ảnh: Nguyễn Thị Kim Vân
Những vấn đề thực tiễn và lý luận đặt ra
Số lượng và chất lượng các tác phẩm có giá trị đã được Đảng, Nhà nước công nhận - Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước khiến chúng ta phải suy nghĩ. Đây là những bức ảnh tiêu biểu nhất của nền nhiếp ảnh cách mạng bởi hai lý do: Phản ánh những sự kiện lớn tiêu biểu của lịch sử Việt Nam giai đoạn 1945 (thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa), 1975 (kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử); Hai là, các tác phẩm được sáng tạo trong thời khắc rất khó khăn, người chụp cũng là những chiến sĩ có mặt tại các chiến trường. Vậy, vì sao nhiều bức ảnh được tạo nên từ vài chục năm gần đây trong khi cuộc sống chung, đời sống của những người chụp, điều kiện thiết bị và công nghệ đã tốt hơn rất nhiều… lại không được đánh giá cao? Thực tiễn là cuộc sống trong hòa bình, sự đòi hỏi của công chúng với nhiếp ảnh đã thay đổi? Đòi hỏi cả về nội dung thể hiện đa dạng, đa chiều, đòi hỏi cả về kỹ thuật. Việc tiếp cận cuộc sống đa chiều, tính phức tạp và sự nhập nhằng về vẻ ngoài giữa cái thoáng qua và cái bản chất; giá trị của cái thực với bản chất của nhiếp ảnh với vẻ đẹp bên ngoài nhờ phần mềm, sự ảo tưởng với ý tưởng… đã khiến thị hiếu của người chụp và người sử dụng hình ảnh, thưởng thức hình ảnh… có sự khác nhau. Là loại hình văn hóa được ứng dụng rất hiệu quả trong đời sống (không chỉ tuyên truyền mà trong các lĩnh vực quảng cáo, kỷ niệm…) nhiếp ảnh đứng trong cuộc tranh luận giữa báo chí và nghệ thuật? vẻ đẹp, cái thực truyền thống và sự thỏa mãn thuần túy chớp nhoáng…
Và chất lượng, tiêu chí, yêu cầu của các cuộc thi, tuyển chọn ảnh, trong một số trường hợp được tổ chức nhờ việc xã hội hóa… đã khiến người thưởng thức các sản phẩm nhiếp ảnh băn khoăn?
Du lịch xanh - Ảnh: Lê Hoàng Mến
Nhiếp ảnh phong trào và việc nâng cao chất lượng sáng tác?
Con số vài chục cuộc thi ảnh mỗi năm, hàng chục giải thưởng ảnh quốc tế, số hội viên mới tăng nhanh, lễ trao giải tưng bừng trên các phương tiện truyền thông ở Trung ương và địa phương là những cái được mà nhiếp ảnh mang lại. Nhưng nhiều câu hỏi vẫn chưa được trả lời: Lĩnh vực ảnh nghệ thuật vẫn chưa ganh đua nổi với ảnh báo chí? Có hay không sự lẫn lộn giữa hai lĩnh vực nhiếp ảnh này? Và sự phản ánh ngay cả ở một số bức ảnh đạt giải cao còn nặng về miêu tả mà chưa hấp dẫn, gợi suy nghĩ và chạm tới trái tim người xem như thường có ở các bức ảnh chụp về đề tài chiến tranh trước đây? Hoạt động lý luận phê bình ngoài những bài viết chung chung, các bài viết phản ánh phong trào, đã không đề cập tới những vấn đề lớn của lý luận văn nghệ là phân tích sâu các hiện tượng, khuynh hướng sáng tác, nhiều câu lạc bộ nhiếp ảnh hoạt động hình thức, chủ yếu là gặp gỡ, là các chuyến đi vui vẻ. Những ý kiến trái chiều sau các cuộc thi và tuyển chọn ảnh cũng bị bỏ ngỏ. Không chỉ những nhà nghiên cứu chuyên viết về nhiếp ảnh mà các thành viên hội đồng giám tuyển ảnh cũng thường im lặng trong các cuộc bàn cãi không hồi kết trên các trang mạng. Điều cần quan tâm nữa là chất lượng của các hội viên mới kết nạp, sau khi gia nhập Hội thì nhịp điệu sáng tạo, sự cần mẫn và tìm điều mới trong ý tưởng, cách diễn đạt… hầu như đã chậm lại. Về hội nhập quốc tế, dù có uy tín và là thành viên tích cực, nhưng nhiếp ảnh Việt Nam hầu như chưa kết nối lại với các nước từng có quan hệ truyền thống, có ảnh hưởng lẫn nhau trong quá khứ, các nước mà Việt Nam có quan hệ ngoại giao sâu như các nước ở Đông Âu và Tây Âu, với Pháp, Trung Quốc, Nga, Đức, Nhật Bản, các nước trong ASEAN, đặc biệt với hai nước láng giềng là Lào và Campuchia, trong thời kỳ chiến tranh, Việt Nam là nước đã từng giúp đỡ họ về cách làm báo, làm ảnh báo chí và truyền thông.
Công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, sự phát triển và sự cạnh tranh thường xuyên của các loại hình truyền thông đa phương tiện cũng tạo áp lực lớn lên nhiếp ảnh. Và như yêu cầu của Nhà nước, như truyền thống, nhiếp ảnh phải là công cụ phục vụ nhân dân và Tổ quốc, những việc lớn phải tập trung giải quyết, có tác động trước mắt và lâu dài với nhau là:
1) Nâng cao chất lượng lối chụp trong khoảnh khắc thực không chỉ là hoạt động của cái tay mà cùng lúc của cái đầu và trái tim. Như vậy, vốn văn hóa, đặc biệt mối quan hệ giữa văn học, các ngành văn nghệ khác như hội họa, thơ, điện ảnh… đã tác động vào tri thức, cách tìm kiếm ý tưởng và sở thích diễn đạt sao cho ảnh có ý mới với lối diễn đạt lạ. 20 năm đã qua nhờ có các liên hoan ảnh khu vực và sự hợp tác của Hội Nhiếp ảnh và Hội Văn học nghệ thuật các tỉnh, nhiều người ở địa phương trở thành hội viên trung ương. Nhưng nội dung, hình thức thi tuyển, cách chấm, chọn ảnh hầu như không có sự đổi mới, yêu cầu chụp và chất lượng chấm chọn cũng không cao. Có nên từ bỏ hình thức liên hoan ảnh các khu vực mà chuyển thành việc tập huấn đi sâu vào các thể loại của ảnh báo chí và ảnh nghệ thuật, các cuộc trao đổi, thảo luận về những vấn đề nhiếp ảnh của khu vực và hướng tiếp cận xã hội?
2) Nâng cao hiệu quả của tài trợ, đầu tư sáng tác nhờ xã hội hóa, nhờ sự tự vận động, không ỷ lại vào ngân sách nhà nước. Đừng quên rằng lớp nhiếp ảnh tiêu biểu, tác giả của những bức ảnh có giá trị, được Đảng và Nhân dân đánh giá cao đã từng được chụp bằng chiếc máy ảnh đơn sơ, thiếu các loại ống kính là kết quả của việc vừa chụp, vừa suy tính trước khi bấm máy.
3) Sử dụng công nghệ mới một cách hợp lý, đúng chỗ, không quá lệ thuộc vào kỹ thuật.
Nhiếp ảnh là công cụ văn hóa tác động đến đời sống chung của nhân dân. Nhà nhiếp ảnh phải là nhà văn hóa, người chiến sĩ văn hóa. Đây là nội dung cơ bản nhất mà Sắc lệnh số 47 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ký ngày 15-3-1953 nêu ra nội dung này cũng đã có trong Đề cương về văn hóa Việt Nam 10 năm trước đó. Nghị quyết 5 của Đảng (năm 1994) xác định “Hội NSNA Việt Nam là hội chính trị, xã hội, nghề nghiệp, coi phục vụ chính trị, tuyên truyền cho hai nhiệm vụ lớn: Bảo vệ Tổ quốc và Xây dựng đất nước” là nội dung hoạt động chính, chủ yếu của nhiếp ảnh, của VHNT nói chung.
Vì vậy, các hoạt động nhiếp ảnh sắp tới cần:
1) Về đề tài: chân dung và hành động của những người Việt Nam thời hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, các lứa tuổi, ngành nghề… Ca ngợi những việc làm tốt trong cuộc sống (trong gia đình, khu dân cư, các hành vi văn hóa đẹp ở công sở, các doanh nghiệp); Phê phán những hành vi sai trái, thiếu văn hóa, thiếu chuẩn mực trong cuộc sống, các hành vi làm hủy hoại môi trường.
2) Về cách diễn đạt: Phải tôn trọng bản chất của nhiếp ảnh là phản ánh cái thực, hạn chế hoặc nghiêm cấm cách chụp giả tạo, bịa đặt, làm giả, đóng kịch, đặc biệt trong lĩnh vực ảnh báo chí, tuyên truyền.
3) Đa dạng hóa các thể loại ảnh và các cuộc thi ảnh chuyên đề, như: kinh tế, giao thông đô thị, phong cảnh miền núi, biển, rừng, sông nước, các khu vực vùng miền, các thể loại như: tĩnh vật, chân dung, ảnh ý tưởng… Các cuộc thi này góp phần làm phong phú đời sống nhiếp ảnh và tạo sân chơi mở cho mọi người yêu thích nhiếp ảnh.
4) Cân nhắc đầu tư, tài trợ cho những nội dung ảnh lớn và khó. Hạn chế đầu tư dàn trải.
Tham luận tại Hội thảo “Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025)” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 6/2025.
VŨ HUYẾN
Nguồn: Tạp chí VHNT số 620, tháng 9-2025