Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi)

Tiếp tục Kỳ họp bất thường lần thứ 9, sáng 18-2, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi).

Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) với tỷ lệ tán thành cao

Với 463/465 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 96,86%) tổng số ĐBQH, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) với tỷ lệ tán thành cao.

Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi), Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng nêu rõ, về bảo đảm tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật, một số ý kiến đề nghị tiếp tục rà soát các quy định của dự thảo Luật, đặc biệt là các quy định về phân cấp, phân quyền để bảo đảm phù hợp, đồng bộ, thống nhất với các quy định của Hiến pháp, các luật và dự thảo luật trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp này. Đồng thời, cần bổ sung nội dung việc phân cấp, phân quyền phải gắn với kiểm soát quyền lực và chống lạm quyền.

Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng cho biết, tiếp thu ý kiến đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo rà soát các quy định tại dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) với quy định của Hiến pháp, các luật, dự thảo luật có liên quan.

Đối với các quy định về kiểm soát quyền lực trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, phân quyền đã được quy định tại khoản 7 và khoản 8 Điều 6, khoản 3 và khoản 4 Điều 8, khoản 3 và khoản 4 Điều 9 và các điều cụ thể về trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong dự thảo Luật.

Bên cạnh đó, đổi mới mạnh mẽ cơ chế phân định thẩm quyền, phân cấp, ủy quyền nhằm thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu, phát huy tính chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.

Đồng thời, kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, về thủ tục hành chính, khơi thông nguồn lực cho phát triển, chủ động ứng phó với những biến đổi của tình hình trong nước và quốc tế, vì mục tiêu tăng trưởng, phát triển chung của đất nước, bảo đảm đồng bộ với nội dung tiếp thu, chỉnh lý trong dự thảo Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi). Vì thế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho bổ sung một số cơ chế, chính sách mới trong dự thảo Luật.

Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội Hoàng Thanh Tùng báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi)

Trong đó, bổ sung nguyên tắc tại khoản 3 Điều 8: “Cơ quan, người phân cấp có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện cần thiết khi quyết định phân cấp, trừ trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị, người được phân cấp có đề nghị và tự bảo đảm điều kiện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp”.

Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ (Điều 5); nguyên tắc phân định thẩm quyền (Điều 6), có ý kiến đề nghị nghiên cứu, xem xét bổ sung vào Điều 5 nguyên tắc kết hợp giữa quyền hạn, trách nhiệm của tập thể và cá nhân.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu theo hướng bổ sung nguyên tắc nêu trên tại khoản 3 Điều 5 như sau: “Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và chức năng, phạm vi quản lý giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ; bảo đảm nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu”.

Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định bảo đảm nguyên tắc Thủ tướng Chính phủ không quyết định các vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với tư cách là thành viên Chính phủ đối với ngành, lĩnh vực được phân công quản lý tại khoản 5 Điều 6 vì chưa bảo đảm tường minh, chưa phù hợp với quy định tại điểm c khoản 4 Điều 13 về việc Thủ tướng Chính phủ “quyết định các vấn đề khi còn ý kiến khác nhau giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ”.

Cũng có ý kiến khác đề nghị nghiên cứu bổ sung vào Điều 6 nội dung: “Trong trường hợp cần thiết, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều hành việc giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của cấp dưới để bảo đảm tính kịp thời, linh hoạt, hiệu quả trong tổ chức thi hành pháp luật, đáp ứng yêu cầu thực tiễn”.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu và chỉnh lý lại khoản 5 Điều 6 cho rõ ràng, bao quát việc phân định thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ theo phân công của Chính phủ và đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý như sau:

“Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ; lãnh đạo công tác của Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao, không quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đối với ngành, lĩnh vực theo phân công của Chính phủ; trường hợp cần thiết, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều hành việc giải quyết những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương”.

Về thẩm quyền của Thủ tướng đối với Bộ trưởng không hoàn thành nhiệm vụ, ngoài cơ chế giám sát thông qua bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, dự thảo Luật đã có quy định về trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công quản lý” (khoản 1 Điều 18).

Cùng với đó là thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong việc “trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; trong thời gian Quốc hội không họp, trình Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ;” (khoản 1 Điều 13) để bảo đảm kiểm soát quyền lực đối với các chức danh này.

Có ý kiến đề nghị bổ sung tại Điều 6 nguyên tắc phối hợp giữa Chính phủ với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy Điều 6 là nguyên tắc phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước, còn việc phối hợp cụ thể giữa Chính phủ với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương đã thể hiện cụ thể tại Điều 12 của dự thảo Luật.

Sau khi nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội Hoàng Thanh Tùng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi), Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật này.

Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 463/465 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 96.86% tổng số đại biểu Quốc hội. Như vậy, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) với tỷ lệ tán thành cao.

Các đại biểu biểu quyết thông qua Luật Tổ chức Chính phủ (sủa đổi)

Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) được Quốc hội thông qua gồm 5 Chương, 32 Điều. Theo đó, về vị trí, chức năng của Chính phủ, Luật quy định: Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Cơ cấu số lượng thành viên Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội quyết định. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm các Bộ, cơ quan ngang Bộ. Việc thành lập, bãi bỏ Bộ, cơ quan ngang Bộ do Chính phủ trình Quốc hội quyết định. Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới thành lập Chính phủ.

Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Luật quy định tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; bảo đảm bình đẳng giới. Tổ chức bộ máy hành chính quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm nguyên tắc cơ quan cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo và chấp hành nghiêm chỉnh quyết định của cơ quan cấp trên.

Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và chức năng, phạm vi quản lý giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ; bảo đảm nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu. Phân quyền, phân cấp hợp lý giữa Chính phủ với chính quyền địa phương, bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Chính phủ và phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.

Thực hiện quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, liên tục, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, khoa học, trong sạch, công khai, minh bạch, kỷ luật, kỷ cương hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp; phục vụ Nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân. Chủ động tham gia, phối hợp chặt chẽ, tăng cường kiểm soát của Chính phủ đối với nền hành chính quốc gia và việc thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp.

Về chế độ làm việc của Chính phủ và từng thành viên Chính phủ, Luật quy định: Chế độ làm việc của Chính phủ, các thành viên Chính phủ được thực hiện trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và đề cao trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, từng thành viên Chính phủ theo quy định của pháp luật. Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số. Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ.

Về hình thức hoạt động của Chính phủ, Luật quy định: Chính phủ họp thường kỳ mỗi tháng một phiên; họp chuyên đề, họp để giải quyết công việc phát sinh đột xuất theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, theo yêu cầu của Chủ tịch nước hoặc của ít nhất một phần ba tổng số thành viên Chính phủ. Trong trường hợp Chính phủ không họp, Thủ tướng Chính phủ quyết định gửi lấy ý kiến các thành viên Chính phủ bằng văn bản. Chính phủ họp theo yêu cầu của Chủ tịch nước để bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Đổi mới hình thức hoạt động của Chính phủ gắn với đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm tính linh hoạt, hiệu quả và xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số.

Về điều khoản chuyển tiếp, trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khác quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ chưa phù hợp với quy định của Luật này thì phải điều chỉnh thống nhất với quy định của Luật này trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.

Trong thời gian luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa sửa đổi, bổ sung theo thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, để bảo đảm giải quyết việc phân quyền, phân cấp đối với một số lĩnh vực ưu tiên, cấp bách, giao Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn và quy định khác có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đang được quy định trong các điều, khoản, điểm có liên quan tại luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để thống nhất áp dụng, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội; trường hợp liên quan đến luật, nghị quyết của Quốc hội thì báo cáo Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội gần nhất.

Trong thời gian cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ phù hợp với quy định của Luật này thì các quy định của pháp luật hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ được tiếp tục thực hiện cho đến khi cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế.

Về hiệu lực thi hành, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1-3-2025. Luật Tổ chức Chính phủ số 76/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 47/2019/QH14 và Luật số 20/2023/QH15 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.

NGỌC BÍCH - Ảnh: Cổng thông tin điện tử Quốc hội

;