Phát triển văn hóa: Từ đường lối đến thể chế pháp luật

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đập tan ách thống trị hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân, phát xít tàn bạo, chấm dứt sự tồn tại của chế độ phong kiến lỗi thời; thiết lập nền dân chủ cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do. Nhờ có thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Nhân dân Việt Nam đã thực sự “đổi đời”, từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Trong suốt 80 năm đồng hành cùng dân tộc, ngành Văn hóa đã không ngừng phát triển, khẳng định vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội. Từ những đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, một hệ thống thể chế và pháp luật về văn hóa đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Bài viết nhìn lại chặng đường vẻ vang, phân tích những thành tựu đã đạt được, đồng thời chỉ ra các thách thức và đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục phát triển văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên hội nhập.

Ngày 16-6-2025, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo - Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ

Từ trước đến nay, văn hóa là sức mạnh nội sinh, là nền tảng tinh thần của xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội; nên trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa phải “soi đường cho quốc dân đi”, soi đường cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội, của mỗi quốc gia, dân tộc trong hành trình xây dựng và phát triển. Để xây dựng nền văn hóa ngày càng phát triển, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc nhưng hiện đại, phù hợp với xu thế, công tác hoàn thiện thể chế về văn hóa luôn là nhiệm vụ quan trọng, đầy khó khăn và thách thức.

1. Bước đầu xây dựng thể chế ngành Văn hóa

Trong thời đại ngày nay Đảng ta luôn coi trọng vấn đề văn hóa và quản lý văn hóa. Đường lối, chủ trương của Đảng về văn hóa thể hiện tại các văn kiện: Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 về Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong tình hình mới; Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 về Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội; Nghị quyết số 33-NQ/TW Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Nghị quyết số 48-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về Chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Kết luận số 01-KL/TW ngày 4-4-2016 của Bộ Chính trị về Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị khóa XI về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

Bộ VHTTDL là Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, với nhiều nhóm quan hệ xã hội phải điều chỉnh và thường xuyên biến động. Do vậy, công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật của Bộ cũng luôn phải đổi mới cho phù hợp với thực tiễn. Trong những năm qua, Bộ VHTTDL ngày càng quan tâm đến công tác pháp chế, trọng tâm là công tác xây dựng hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật của ngành. Bộ đã tổ chức quán triệt nhiệm vụ xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật đến từng đơn vị thuộc Bộ, phân công trách nhiệm cụ thể đối với các đồng chí lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thông qua chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hằng năm của Bộ.

Hiện nay, các lĩnh vực chuyên ngành liên quan đến văn hóa thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ gồm: di sản văn hóa; nghệ thuật biểu diễn; điện ảnh; mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm; quyền tác giả, quyền liên quan; thư viện; quảng cáo; văn hóa quần chúng, văn hóa dân tộc và tuyên truyền cổ động; văn học. Những năm qua, trong lĩnh vực văn hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng; nhiều giá trị mới về văn hóa được khẳng định và nhân rộng; thế hệ trẻ hăng hái tiếp thu những kiến thức khoa học công nghệ tiên tiến, thể hiện mạnh mẽ ý chí vươn lên, lập thân, lập nghiệp để phát triển đất nước. Trong bối cảnh tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước, trình độ dân trí từng bước được nâng cao, nhu cầu văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng, các phương tiện quảng bá ngày càng hiện đại, văn học, nghệ thuật có bước phát triển mới, có những biến đổi sâu sắc.

Hệ thống văn bản pháp luật về văn hóa trong những năm qua đã từng bước được hoàn thiện, bước đầu phát huy vai trò là nền tảng của sự phát triển nền văn hóa theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, tác động tích cực và sâu rộng đến đời sống của nhân dân, đồng thời cũng tạo điều kiện cho nhân dân - những chủ thể của văn hóa tham gia tích cực vào hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, trong sự phát triển chung, đã bắt đầu hình thành các yếu tố để trở thành những yếu tố cơ bản của một nền công nghiệp văn hóa, hứa hẹn nhiều triển vọng phát triển cùng xu thế phát triển chung của đất nước, khu vực và thế giới. Thông qua các hoạt động thúc đẩy sự phát triển của văn hóa, đông đảo nhân dân đã được thưởng thức các tác phẩm điện ảnh mới, người đẹp, người mẫu Việt Nam được tham gia biểu diễn tại các cuộc thi, thị trường biểu diễn lớn của quốc tế. Ngày càng nhiều di sản văn hóa Việt Nam được UNESCO công nhận, ghi danh là di sản tiêu biểu của thế giới. Vấn đề thực thi bản quyền bước đầu được Nhà nước và xã hội quan tâm, tạo uy tín cho các đối tác nước ngoài trong việc duy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác về văn hóa...Sự hợp tác quốc tế trong các hoạt động chuyên ngành đã góp phần thúc đẩy mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, tạo được cầu nối, truyền bá văn hóa, lối sống cùng bản sắc Việt Nam để bạn bè thế giới hiểu thêm về đất nước, con người Việt Nam. Nhờ vậy, bức tranh tổng thể của văn hóa đã mang những sắc thái mới, đa dạng và năng động hơn, đáng chú ý là sự đa dạng hóa về các chủ thể văn hóa, sự chuyển đổi từ nguồn lực đơn tuyến của Nhà nước cho văn hóa đến sự nhập cuộc, hiệp lực và phối hợp đa chiều, đa thành phần từ nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội cho các hoạt động văn hóa. Quan điểm văn hóa, văn nghệ là sự nghiệp của toàn xã hội, huy động tiềm năng, nguồn lực của mọi lực lượng xã hội cùng tham gia phát triển sự nghiệp văn hóa đã dẫn đến những chuyển biến tích cực trong thực tiễn. Các công đoạn khác nhau của văn hóa trước đây chỉ thuộc trách nhiệm của Nhà nước (từ khâu sáng tạo, sản xuất đến phân phối) nay trở thành hoạt động thu hút được sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội như cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp tư nhân, nhà đầu tư nước ngoài, nhà tài trợ nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận của Việt Nam và quốc tế. Sự tham gia của nhiều chủ thể văn hóa đã thúc đẩy sự đa dạng trong loại hình, ý tưởng, xu hướng và phong cách của các biểu đạt văn hóa, đem đến cho công chúng những món ăn tinh thần phong phú hơn.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa cho đến nay được đánh giá là tương đối phù hợp với hệ thống pháp luật nói chung. Trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống văn bản trong lĩnh vực văn hóa đảm bảo nguyên tắc xây dựng, đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật lập pháp. Các văn bản luật, nghị định, thông tư đều cơ bản bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, pháp luật trong lĩnh vực văn hóa ngày càng đi vào cuộc sống trong nước và phù hợp với pháp luật quốc tế. Đặc biệt, trong thời gian qua, Việt Nam đã tích cực và sớm tham gia các công ước, điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực văn hóa và kịp thời thể chế hóa các nguyên tắc, chuẩn mực về các hoạt động liên quan đến ngành trong pháp luật quốc gia, góp phần hoàn thiện cơ sở pháp luật cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

2. Thách thức và giải pháp

Văn hóa là lĩnh vực rộng, phức tạp và nhạy cảm, vừa là những vấn đề hết sức trừu tượng, nhưng đồng thời cũng là những nội dung cụ thể, hằng ngày của đời sống xã hội; định hình các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực văn hóa, gia đình để điều chỉnh bằng pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong tình hình mới không phải là vấn đề đơn giản; các chuẩn mực chung trong lĩnh vực văn hóa rất khó định lượng. Do vậy, việc nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh lĩnh vực này cũng hết sức khó khăn, dễ lỗi thời, lạc hậu, khó bảo đảm được tính khái quát cao của quy phạm pháp luật.

Hội nghị hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được Vụ Pháp chế thực hiện thường xuyên hằng năm - Ảnh: Vụ Pháp chế

Trong những năm qua, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập mạnh mẽ với quốc tế trên nhiều bình diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Quá trình hội nhập mang lại nhiều cơ hội, nhưng cũng gặp phải nhiều thách thức, trở ngại, nhất là vấn đề về văn hóa. Sức ép về đồng hóa văn hóa của một số quốc gia lớn đang tạo áp lực mạnh mẽ đến đời sống văn hóa, nghệ thuật của nước ta, tác động không nhỏ vào quá trình nhận thức và thị hiếu về nghệ thuật, thẩm mỹ, dẫn đến hiện tượng một bộ phận giới trẻ đã bị lệch chuẩn bởi tác động của những xu hướng xấu, ngoại lai, sự sa sút của đạo đức, lối sống, những truyền thống tốt đẹp đang nhanh chóng bị mai một. Việc xây dựng một hành lang pháp lý để gìn giữ các giá trị tốt đẹp của văn hóa không phải là công việc dễ dàng, bởi đã qua rồi thời kỳ “không quản lý được là cấm”, việc quản lý nhất là công cụ quản lý văn hóa đòi hỏi phải nhiều “kỹ năng mềm”, đòi hỏi sự đầu tư lớn để tự chúng ta vươn lên, đủ sức chống lại những ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa ngoại lai.

Bên cạnh đó, việc phân định giữa chức năng quản lý nhà nước và việc triển khai các hoạt động sự nghiệp ở một số cơ quan, đơn vị có chức năng tham mưu quản lý nhà nước về văn hóa còn chưa rõ ràng, rành mạch dẫn đến việc đầu tư thời gian, nguồn lực để tổ chức triển khai các công việc tác nghiệp, sự vụ còn lớn mà xem nhẹ công tác quản lý nhà nước, công tác nghiên cứu, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Trình độ, năng lực về nghiên cứu, xây dựng văn bản của đội ngũ cán bộ chuyên môn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước bằng pháp luật trong tình hình mới.

Trước thực tế đó, hệ thống pháp luật về văn hóa cũng phải thay đổi để vừa đạt yêu cầu về quản lý, nhưng cũng tạo đà cho những yếu tố tích cực được phát triển, bởi văn hóa là sáng tạo, là sự thăng hoa. Làm được điều này là rất khó khăn, nhưng cũng rất bức thiết. Thực tiễn đang đòi hỏi những đổi mới trong cách thức quy định và thực thi pháp luật, chúng ta không thể giữ mãi hệ thống pháp luật cũ, đó là duy ý chí. Vì vậy, xây dựng, hoàn thiện pháp luật về văn hóa là yêu cầu, là nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra. Để có thể xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình trong thời gian tới, cần tích cực triển khai xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của ngành, đồng thời có những biện pháp để nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành và thực thi văn bản, góp phần hoàn thiện thể chế ngành Văn hóa. Đó là:

Thứ nhất, tăng cường phân cấp phân quyền, cải cách hành chính, đồng thời tăng cường hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động thực thi công vụ. Huy động mọi nguồn lực trong xã hội tham gia vào việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan, tổ chức.

Thứ hai, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật; bổ sung hợp lý số lượng cán bộ, công chức làm công tác này; tăng cường tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực phân tích, xây dựng chính sách pháp luật và kỹ năng soạn thảo, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật cho những người làm công tác xây dựng pháp luật của các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ VHTTDL.

Thứ ba, thực hiện chế độ đãi ngộ để thu hút nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản, am hiểu chuyên môn, có khả năng hoạch định chính sách. Đặc biệt thu hút nguồn nhân lực trẻ để có những góc nhìn mới, phù hợp với thị trường.

Thứ tư, tăng cường kết hợp giữa hoạt động nghiên cứu với giao lưu, hợp tác, liên doanh, liên kết để tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm xây dựng văn bản quy phạm pháp luật từ quốc gia phát triển, đặc biệt là các nước trong khu vực có nền văn hóa tương đồng.

Thứ năm, tăng cường phối hợp công tác với các bộ, ngành, các đoàn thể, tổ chức quốc tế tại Việt Nam để tranh thủ và huy động các nguồn lực cho hoạt động xây dựng, phổ biến giáo dục pháp luật về văn hóa, đáp ứng được yêu cầu phát triển văn hóa trong thời đại ngày nay.

3. Kết luận

Trong suốt 80 năm đồng hành cùng dân tộc, ngành Văn hóa Việt Nam không ngừng nỗ lực để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc. Hành trình ấy bắt đầu từ những đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh và được thể chế hóa một cách kịp thời, đầy đủ thông qua hệ thống pháp luật. Nhờ có một hành lang pháp lý vững chắc, các giá trị văn hóa đã được bảo tồn, phát huy, tạo điều kiện cho các hoạt động sáng tạo, hưởng thụ văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và sự biến động không ngừng của đời sống văn hóa, ngành VHTTDL vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức. Việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và thu hút nhân tài là những nhiệm vụ cấp thiết để ngành VHTTDL có thể tiếp tục “soi đường” cho sự phát triển của đất nước. Với những giải pháp đồng bộ và quyết tâm cao, hệ thống pháp luật về văn hóa sẽ tiếp tục được đổi mới, trở thành nền tảng vững chắc để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam vừa hiện đại, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần kiến tạo một xã hội phồn vinh và hạnh phúc.

Ths  PHẠM CAO THÁI

Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ VHTTDL

Nguồn: Tạp chí VHNT số 615, tháng 8-2025

;