Phát triển văn hóa đọc cho đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số (DTTS) cùng chung sống. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm tới vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam, nơi có tỷ lệ đồng bào DTTS cao, văn hóa đọc còn nhiều hạn chế. Bài viết phân tích thực trạng phát triển văn hóa đọc của đồng bào DTTS ở các tỉnh Tây Bắc, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy văn hóa đọc phát triển cho đồng bào DTTS. Đây là kết quả của nhóm nghiên cứu qua tiến hành khảo sát (800 phiếu) trong năm 2023 với nhóm đối tượng bạn đọc người DTTS là trẻ em, người lớn và nhóm người làm thư viện trong hệ thống thư viện, thiết chế văn hóa tại các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu.

Học sinh Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học số 1 Chung Chải, huyện Mường Nhé đọc sách ngoài giờ lên lớp - Ảnh: stttt.dienbien.gov.vn

1. Thực trạng công tác phát triển văn hóa đọc đối với đồng bào DTTS các tỉnh Tây Bắc Việt Nam

Thời gian qua, công tác phát triển văn hóa đọc cho đồng bào DTTS, miền núi ở nước ta nói chung và các tỉnh Tây Bắc Việt Nam nói riêng đã có nhiều thuận lợi, tạo đà phát triển đời sống văn hóa tinh thần, cũng như đời sống vật chất của đồng bào.

Một là, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước với đồng bào DTTS được ban hành và triển khai

Tây Bắc có vị trí chiến lược quan trọng, nhưng cũng là khu vực có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn. Việc nâng cao đời sống kinh tế, xã hội cho đồng bào DTTS là một mục tiêu trước mắt và lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện cho việc huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa đọc ở các tỉnh Tây Bắc.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác giáo dục ngôn ngữ đối với vùng đồng bào DTTS như: Nghị định số 82/2010/NĐ-CP, ngày 15-7-2010, của Chính phủ “Quy định việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên”; Quyết định số 1008/QĐ-TTg, ngày 2-6-2016, của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025”; Quyết định 142/QĐ-TTg, ngày 27-1-2022 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình “Nâng cao chất lượng dạy học các môn tiếng dân tộc thiểu số trong chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn 2021-2030”... Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng 8 chương trình dạy song ngữ bằng tiếng dân tộc (Thái, Mông, Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng, Chăm, Khmer, Hoa, Ê Đê) cho các trường tiểu học, phổ thông dân tộc nội trú vùng đồng bào DTTS (1). Các chính sách đó nhằm mục tiêu xóa mù chữ cho đồng bào DTTS ở nước ta.

Đặc biệt, một số chính sách liên quan trực tiếp đến phát triển văn hóa đọc cho đồng bào DTTS như: Quyết định số 59/QĐ-TTg, ngày 16-1-2017, về việc cấp một số ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng DTTS và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn; Quyết định số 1860/QĐ-TTg, ngày 23-11-2017, Phê duyệt đề án “Thí điểm cấp ra-đi-ô cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới”; Quyết định số 45/QĐ-TTg, ngày 9-1-2019 về việc cấp một số ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2019-2021.

Các văn bản chỉ đạo của Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ/ngành ở Trung ương về phát triển văn hóa đọc đối với đồng bào DTTS tạo chuyển biến quan trọng về nhận thức, hành động từ Trung ương đến địa phương và cá nhân đồng bào DTTS như: Quyết định số 329/QĐ-TTg ngày 15-3-2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Luật Thư viện năm 2019; Chỉ thị số 20/CT-TTg ngày 1-11-2022 về đẩy mạnh đổi mới hoạt động thư viện trong xây dựng phát triển kỹ năng đọc, tiếp cận và xử lý thông tin cho thiếu nhi; Chương trình hỗ trợ xây dựng tủ sách cộng đồng cho các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi... Thông qua các văn bản, chính sách định hướng về phát triển văn hóa đọc và thư viện, Nhà nước đã gắn kết vai trò của hoạt động thư viện với phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng, trong đó phát triển văn hóa đọc là mục tiêu mỗi thư viện phải hướng tới trong tiến trình đổi mới hoạt động.

Hai là, sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương

Theo Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019 do Ủy ban dân tộc và Tổng cục Thống kê thực hiện, tiện nghi sinh hoạt của hộ DTTS đã được cải thiện, nhiều hộ đã có phương tiện để tiếp cận thông tin, văn hóa, xã hội và công nghệ thông tin như ti vi, máy tính, điện thoại cố định, di động, máy tính bảng. Cơ hội tiếp cận thông tin ngày càng được mở rộng, với tỷ lệ hộ sử dụng internet vùng Trung du và miền núi phía Bắc đạt 65,9%. Điều này cho thấy, mức hưởng thụ về đời sống tinh thần của đồng bào DTTS đã tăng lên đáng kể.

Những năm qua, sau khi nhận được các văn bản pháp quy về công tác thư viện và văn hóa đọc từ các cơ quan Trung ương, để triển khai hiệu quả sự chỉ đạo từ Trung ương, đồng thời căn cứ vào đặc điểm, tình hình của mỗi địa phương, UBND các tỉnh Tây Bắc đã kịp thời ban hành nhiều văn bản pháp quy quan trọng, để triển khai thực hiện kế hoạch phát triển văn hóa đọc như: Kế hoạch số 154/KH-UBND ngày 27-11-2017, Quyết định 1861/QĐ-UBND ngày 28-8-2019 và Kế hoạch số 167/KH-UBND ngày 24-8-2021 của UBND tỉnh Hòa Bình; Kế hoạch số 325/KH-UBND ngày 6-10-2020 của UBND tỉnh Lào Cai; Kế hoạch số 265/KH-UBND ngày 12-11-2021 và Kế hoạch số 124/KH-UBND ngày 7-6-2018 của UBND tỉnh Sơn La; Kế hoạch số 1261/QĐ-UBND ngày 16-7-2021 của UBND tỉnh Điện Biên; Quyết định số 4084/KH-UBND ngày 6-12-2021 của UBND tỉnh Lai Châu...

Chính quyền địa phương đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tiếp cận và sử dụng các thiết chế văn hóa. Các thư viện tỉnh đã có trụ sở kiên cố và cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi tỉnh. Kinh phí hoạt động của các thư viện tỉnh khu vực Tây Bắc được tăng lên mỗi năm. Theo thông tin cung cấp từ các thư viện tỉnh, mức kinh phí trung bình từ năm 2018-2022: Sơn La (6,277 tỷ đồng/năm); Hòa Bình (1,884 tỷ đồng/năm); Lai Châu (2,82 tỷ đồng/năm) và Điện Biên (2,226 tỷ đồng/năm); Lào Cai (4,575 tỷ đồng/năm); Yên Bái (5,522 tỷ đồng/năm) (2).

Các thư viện tỉnh khu vực Tây Bắc đã ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thư viện như làm thẻ trực tuyến, thư mục số. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực thư viện ngày được quan tâm, đầu tư. Trong số 200 phiếu khảo sát đối với cán bộ thư viện về việc lãnh đạo có tạo điều kiện tham gia các lớp tập huấn/ bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, 100% phiếu có câu trả lời: Có. Các thư viện đã chú trọng đổi mới phương thức phục vụ bạn đọc, triển khai nhiều mô hình phù hợp để khơi dậy đam mê đọc sách, hình thành thói quen, xây dựng và phát triển kỹ năng đọc, kỹ năng tiếp cận và xử lý thông tin cho bạn đọc. Hệ thống thư viện, tủ sách ở các bản làng đã được đầu tư phát triển. Hiện nay, 5/6 thư viện tỉnh thuộc vùng Tây Bắc đã có xe thư viện lưu động (Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Hòa Bình, Điện Biên). Nhìn chung, các thư viện tỉnh đã phát huy tốt công năng của xe thư viện lưu động để phục vụ các đối tượng bạn đọc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đưa sách đến với bạn đọc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Trung bình mỗi năm, Thư viện Hòa Bình phục vụ 20 cuộc; Thư viện tỉnh Sơn La 75 cuộc; Thư viện tỉnh Lào Cai 120 cuộc; Thư viện tỉnh Yên Bái 183 cuộc; Thư viện tỉnh Điện Biên 60 cuộc (3). Năm 2023, Thư viện tỉnh Điện Biên đã tổ chức luân chuyển tài nguyên thông tin và phục vụ lưu động bằng xe lưu động 112 lượt tới các đồn biên phòng, trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội, trại giam và 92 buổi tới các điểm trường học ở các xã vùng sâu, vùng cao biên giới, vùng đặc biệt khó khăn (4). Thư viện tỉnh Sơn La xây dựng và duy trì 47 chi nhánh trạm sách thư viện, tủ sách đồn biên phòng (5)... Sách, báo thông qua các thư viện cũng đã thường xuyên được đưa tới phục vụ các địa bàn dân cư đồng bào các dân tộc, các trường phổ thông dân tộc nội trú, đồn biên phòng.

Ba là, nhu cầu đọc sách của người dân khu vực Tây Bắc ngày càng cao

Đồng bào DTTS đã nhận thức rõ về vai trò của đọc sách trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mình. Cùng với hoạt động phát triển kinh tế, người dân đã quan tâm hơn tới việc phát triển đời sống văn hóa tinh thần. Có thể nói, trong những năm gần đây, nhu cầu đọc sách của người dân khu vực Tây Bắc ngày càng cao. Đó là do tỷ lệ trẻ em DTTS được đến trường tăng lên: Tỷ lệ trẻ em DTTS trong độ tuổi đi học phổ thông nhưng không đi học giảm gần hai lần, từ 26,4% năm 2009 xuống còn 15,5% năm 2019 (6). Tỷ lệ biết đọc viết chữ phổ thông cao hơn như dân tộc Ngái (96,5%), Sán Dìu (95,7%), Mường (95,5%), Tày (94,9%), Thổ (94,9%), Hoa (91,0%), Nùng (90,0%), một số dân tộc thấp hơn như dân tộc Mảng (46,2%), La Hủ (46,9%), Lự (49,7%), Mông (54,3%) (7). Các trường học đã được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất, thư viện được quan tâm đầu tư. Các thư viện trường học được xây dựng tiết học thư viện theo Thông tư 16/2022/TT-BGDĐT ngày 22-11-2022 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định tiêu chuẩn thư viện. Một số trường đã xây dựng các mô hình đọc sách tại lớp hiệu quả. Nhiều trường dân tộc nội trú đã đưa sách về phục vụ các em học sinh DTTS tại ký túc xá, để thuận lợi cho các em tiếp cận với sách, báo và phát triển thói quen đọc sách. Ngoài ra, khi đời sống vật chất của đồng bào DTTS được cải thiện, họ sẽ có thời gian và điều kiện dành cho việc đọc sách, khả năng chi trả việc mua sách và tham gia vào các hoạt động văn hóa liên quan đến sách cũng được chú trọng hơn. Theo kết quả điều tra của nhóm khảo sát, tỷ lệ bạn đọc đọc sách, báo tại thư viện là 75,33% (bạn đọc trẻ em), 63,33% (bạn đọc người lớn); thời gian đọc sách từ 1-2 giờ/ ngày là 40,67% (bạn đọc trẻ em), 33% (bạn đọc người lớn); về tần suất mua sách: thường xuyên là 12,67% (bạn đọc trẻ em, 8,33% (bạn đọc người lớn); thỉnh thoảng là 71% (bạn đọc trẻ em), 70% (bạn đọc người lớn) (8). Bên cạnh đó, các thư viện còn tổ chức nhiều hoạt động khuyến khích đọc sách như tổ chức Ngày Sách và văn hóa đọc, Cuộc thi Đại sứ văn hóa đọc, Cuộc thi giới thiệu sách…

Tuy nhiên, việc phát triển văn hóa đọc cho đồng bào DTTS ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam gặp không ít khó khăn:

Hệ thống chính sách văn hóa đối với các DTTS chưa đồng bộ, chưa phù hợp với đặc thù vùng đồng bào DTTS, miền núi và tốc độ phát triển kinh tế, xã hội. Nguồn lực đầu tư cho phát triển văn hóa đọc còn hạn chế. Một bộ phận nhỏ các ngành, các cấp chưa nhận thức được hết vai trò của phát triển văn hóa đọc cho đồng bào DTTS. Chính sách đãi ngộ đối với cán bộ thư viện không cao, thậm chí không có như cán bộ thư viện kiêm nhiệm phụ trách các phòng đọc cộng đồng, điểm Bưu điện - văn hóa xã. Trong số 200 phiếu khảo sát cán bộ thư viện về chế độ đãi ngộ vật chất đối với nhân viên thư viện có tới 126 phiếu (63%) cho rằng chưa hợp lý (9).

Tình hình biết đọc, biết viết chữ dân tộc của người DTTS chưa cao, nhiều dân tộc còn thấp. Hiện nay, có 32/53 DTTS có chữ viết riêng của dân tộc mình, tuy nhiên, tỷ lệ người DTTS từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ của dân tộc mình còn thấp, chiếm 15,9% (10). Kinh phí đầu tư của Nhà nước cho việc xuất bản ấn phẩm chính trị phổ thông phục vụ nhiệm vụ nâng cao dân trí cho đồng bào DTTS, miền núi còn rất hạn chế. Số lượng sách xuất bản bằng tiếng DTTS hằng năm không nhiều. Nội dung sách chưa phong phú và bám sát với đời sống thực tế của đồng bào. Các thư viện tỉnh có phục vụ tài liệu bằng tiếng DTTS, nhưng không nhiều và chỉ có 14,50% bạn đọc DTTS thường xuyên quan tâm tới sách tiếng dân tộc (11).

Do khoảng cách địa lý vùng đồng bào DTTS, một số bản làng nằm ở vùng sâu vùng xa, nên khó khăn trong việc tiếp cận sách, báo, tạp chí. Một số tủ sách pháp luật đặt trong trụ sở UBND xã không thuận lợi cho đồng bào tiếp cận tủ sách. Hệ thống thư viện, tủ sách ở các bản làng còn thiếu và chưa đáp ứng được nhu cầu đọc của người dân. Chất lượng sách và tài liệu còn hạn chế, chưa đa dạng về thể loại và nội dung.

Những khó khăn trên cần được giải quyết để thúc đẩy công tác phát triển văn hóa đọc cho đồng bào DTTS ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam hiệu quả hơn.

2. Giải pháp phát triển văn hóa đọc đối với đồng bào DTTS các tỉnh Tây Bắc

Để phát triển văn hóa đọc ở Việt Nam nói chung, ở khu vực Tây Bắc nói riêng rất cần có sự chung tay của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nhóm nghiên cứu xin đề xuất một số giải pháp:

Một là, nâng cao nhận thức cho các cấp lãnh đạo về vai trò của văn hóa đọc

Văn hóa đọc đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao đời sống của người dân. Đây là một vấn đề cấp bách cần được quan tâm và có chiến lược phát triển nghiêm túc, bài bản từ phía các cấp lãnh đạo. Bởi văn hóa đọc tạo nền tảng cho sự phát triển tri thức. Khi có tri thức, con người có thể ứng dụng vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Văn hóa đọc góp phần bồi dưỡng đạo đức, nhân cách con người. Khi con người có đạo đức, xã hội sẽ tốt đẹp hơn, tiến bộ và văn minh hơn. Đọc sách giúp con người giải trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng, để thấy được cuộc sống tinh thần ý nghĩa hơn. Sách còn giúp con người tiếp cận với những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến của thế giới, để ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống và công việc. Sách còn là di sản văn hóa quý giá của dân tộc, lưu giữ những giá trị truyền thống của dân tộc. Nhận thức được vai trò lớn lao đó, các cấp lãnh đạo sẽ có những chiến lược phát triển văn hóa đọc hiệu quả ở từng địa phương. Đồng thời, các nội dung phát triển văn hóa đọc cần được lồng ghép vào trong các chỉ tiêu đánh giá phát triển văn hóa, xã hội của đất nước.

Hai là, nâng cao nhận thức về phát triển văn hóa đọc cho đồng bào DTTS

Đồng bào DTTS ít có thói quen đọc sách, báo nên cần đa dạng hóa hình thức truyền thông trên nền tảng công nghệ số, nâng cao nhận thức, chuyển đổi tư duy, tăng cường trách nhiệm của người dân trong việc phát triển văn hóa đọc. Việc nâng cao nhận thức cho người dân về phát triển văn hóa đọc được thực hiện đồng thời với việc giáo dục thói quen và kỹ năng đọc sách cho đồng bào. Đồng thời, trong việc công nhận gia đình văn hóa, cộng đồng văn hóa, cần lồng ghép tiêu chí đánh giá văn hóa đọc, phát triển văn hóa đọc của gia đình, cộng đồng đó.

Ba là, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển thư viện và văn hóa đọc

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách của Nhà nước để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động phát triển văn hóa đọc... Cơ quan quản lý nhà nước cần ban hành chính sách riêng về phát triển văn hóa đọc cho đồng bào các DTTS nói chung và DTTS Tây Bắc nói riêng. Để chính sách đi vào thực tiễn, nâng cao hiệu quả tác động của chính sách, cần biên soạn bộ công cụ/tài liệu hướng dẫn phát triển văn hóa đọc cho người làm phát triển văn hóa đọc và bạn đọc. Đặc biệt, cần ban hành các chính sách đặc thù cho phát triển văn hóa đọc vùng Tây Bắc Việt Nam như: chính sách ưu tiên phát triển tài nguyên thông tin bằng tiếng dân tộc; chính sách đãi ngộ nhân lực phát triển văn hóa đọc; chính sách ưu tiên đầu tư cho hoạt động phát triển văn hóa đọc…

Bốn là, củng cố và phát triển hệ thống thư viện công cộng và các mô hình thư viện, tủ sách cơ sở

Xuất phát từ nhu cầu của mỗi địa phương, để phát triển văn hóa đọc cho đồng bào DTTS, hệ thống thư viện công cộng phải tăng cường nguồn tài nguyên thông tin, từng bước thực hiện chuyển đổi số trong các hoạt động thư viện nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu bạn đọc. Đồng thời, các thư viện công cộng cần đa dạng hóa và từng bước hiện đại hóa các sản phẩm và dịch vụ thư viện như: cung cấp thông tin theo yêu cầu, biên soạn các ấn phẩm thông tin - thư mục phục vụ cho các đối tượng nghiên cứu ở địa phương; đổi mới các hình thức tuyên truyền, giới thiệu sách để thu hút bạn đọc đến thư viện. Bên cạnh đó, hệ thống thư viện công cộng là đầu mối hỗ trợ cho các thư viện nhà trường trên địa bàn; thực hiện liên thông, liên kết giữa hệ thống thư viện công cộng với các mô hình thư viện, phòng đọc sách ở địa phương và cả nước.

Việc củng cố và phát triển các mô hình thư viện, tủ sách cơ sở (phòng đọc sách, tủ sách pháp luật, Điểm bưu điện - văn hóa xã, Tủ sách biên phòng, câu lạc bộ, nhà văn hóa thôn, bản…) cần được quan tâm, bởi các mô hình thư viện, tủ sách cơ sở là cánh tay nối dài thực hiện việc rút ngắn khoảng cách giữa tài liệu và người đọc. Triển khai các mô hình thư viện cơ sở phù hợp, hiệu quả, linh hoạt gắn với việc ứng dụng công nghệ thông tin và công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực thư viện. Các thư viện cơ sở cần đổi mới phương thức hoạt động và cung ứng sản phẩm, dịch vụ thông tin cho đồng bào DTTS ở cơ sở, chú trọng cả phục vụ thư viện truyền thống và thư viện số.

Do vậy, Nhà nước cần bổ sung thêm nguồn kinh phí cho việc đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị, bổ sung nguồn tài nguyên thông tin cho hệ thống thư viện công cộng và các mô hình thư viện, tủ sách cơ sở ở khu vực Tây Bắc.

Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển văn hóa đọc

Tích cực bồi dưỡng đội ngũ người làm thư viện cơ sở về chuyên môn, nghiệp vụ như: năng lực tổ chức tài nguyên thông tin, năng lực tổ chức các sản phẩm và dịch vụ thư viện, năng lực số. Các thư viện công cộng thường xuyên cử viên chức tham gia vào các lớp học, tập huấn nghiệp vụ của Vụ Thư viện, Thư viện Quốc gia Việt Nam. Thư viện tỉnh định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ cho người làm thư viện các thư viện, tủ sách cơ sở. Người làm thư viện cần có sự am hiểu về văn hóa đồng bào DTTS và phải được phát triển các kỹ năng mềm như: kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức hoạt động thư viện, kỹ năng tư vấn, hướng dẫn người đọc. Bên cạnh đó, cần xây dựng đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên làm công tác phát triển văn hóa đọc. Theo Vụ trưởng Vụ Dân tộc thiểu số, Ủy ban Dân tộc Lưu Xuân Thủy: Đào tạo, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho các cán bộ, nhân viên, tình nguyện viên làm việc trong lĩnh vực văn hóa đọc, đặc biệt là những người thuộc DTTS hoặc có khả năng giao tiếp bằng các ngôn ngữ DTTS. Nâng cao năng lực, kỹ năng và ý thức trách nhiệm của họ trong việc quản lý, vận hành, phục vụ và phổ biến văn hóa đọc cho đồng bào DTTS nhằm tạo ra một lực lượng nhân sự chuyên nghiệp, nhiệt tình và có tầm nhìn về văn hóa đọc.

Sáu là, tăng cường công tác xã hội hóa và sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị

Đây là trách nhiệm chung của các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội và mỗi cá nhân. Việc huy động sự tham gia của các tổ chức xã hội, cá nhân trong cộng đồng cùng với Nhà nước vào thực hiện các nhiệm vụ chung này đã góp phần huy động nguồn lực đa dạng cho hoạt động phát triển văn hóa đọc, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước; tạo sự đồng thuận, chung tay góp sức của cộng đồng trong việc xây dựng môi trường khuyến khích đọc sách; phát huy sức mạnh của các tổ chức xã hội, cá nhân trong việc tuyên truyền, giáo dục, tổ chức các hoạt động đọc sách cho đồng bào DTTS. Các tổ chức xã hội có thể hỗ trợ kinh phí để xây dựng thư viện, tủ sách ở các bản làng; hỗ trợ kinh phí để mua sắm sách, báo, tạp chí cho các thư viện, tủ sách; hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động đọc sách tại cộng đồng.

Sự phối hợp giữa thư viện và các cơ quan, đơn vị mang lại tác dụng lớn cho việc phát triển văn hóa đọc. Cụ thể: Nhà trường cần lồng ghép giáo dục về văn hóa đọc vào chương trình giáo dục phổ thông; tổ chức các cuộc thi cảm nhận về sách; mở các câu lạc bộ đọc sách tại trường học. Chỉ thị số 42/CT/TƯ ngày 25-8-2024 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nêu rõ: “Phát triển hệ thống sách song ngữ, xuất bản nhiều sách bằng tiếng dân tộc với trình độ thích hợp, đáp ứng nhu cầu của đồng bào các dân tộc thiểu số”. Do vậy, Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí để xuất bản sách bằng tiếng DTTS, hỗ trợ các tác giả, dịch giả sáng tác và dịch thuật sách bằng tiếng DTTS.

Gia đình và nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành, phát triển văn hóa đọc cho trẻ em; tạo môi trường thuận lợi cho trẻ em và thanh thiếu niên tham gia đọc sách. Việc tạo dựng thói quen đọc sách cho mỗi người phải được hình thành từ khi còn nhỏ. Vì vậy, cha mẹ nên dành thời gian đọc sách cho con, định hướng đọc sách cũng như trang bị một tủ sách cho gia đình. Nhà trường cần đầu tư, xây dựng thư viện với nguồn tài liệu phong phú, đáp ứng nhu cầu của các em học sinh. Đồng thời, cần tổ chức các hoạt động đọc sách và khuyến khích học sinh tham gia các câu lạc bộ đọc sách trong nhà trường…

3. Kết luận

Phát triển văn hóa đọc nói chung và phát triển văn hóa đọc cho đồng bào các DTTS các tỉnh Tây Bắc nói riêng là nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm rút ngắn khoảng cách về mọi mặt giữa các dân tộc trong cả nước. Việc xây dựng hệ thống thư viện, tủ sách, tổ chức các hoạt động đọc sách… sẽ tạo điều kiện cho đồng bào DTTS tiếp cận với sách, báo dễ dàng hơn, góp phần nâng cao tri thức, bồi dưỡng nhân cách, cải thiện đời sống tinh thần cho đồng bào, đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của khu vực và cả nước. Với những nỗ lực của các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội và sự chung tay góp sức của mỗi cá nhân, hy vọng rằng, văn hóa đọc sẽ trở thành một thói quen đẹp và ngày càng phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng đồng DTTS Tây Bắc, góp phần xây dựng một Tây Bắc giàu đẹp, văn minh và tiến bộ.

 __________________

1. Bảo tồn chữ viết dân tộc thiểu số, danvan.vn, 5-9-2017.

2, 3. Nhóm nghiên cứu, Kết quả khảo sát hệ thống thư viện công cộng và các mô hình thư viện, phòng đọc cơ sở tại các tỉnh khu vực Tây Bắc, 2023.

4. Báo cáo tổng kết công tác của Thư viện tỉnh Điện Biên năm 2023.

5. Hồ Thị Kim Dung, Công tác phối hợp, liên kết trong phát triển các mô hình thư viện cơ sở phục vụ nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng biên giới trên địa bàn tỉnh Sơn La, Kỷ yếu Hội thảo phục vụ xây dựng đề án mô hình thư viện cơ sở phục vụ nhân dân miền núi, biên giới vùng trung du và miền núi phía Bắc giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2045, 2023.

6, 7, 10. Ủy ban dân tộc, Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2020, tr.75, 77, 78.

8, 9, 11. Nhóm nghiên cứu, Số liệu khảo sát tại các thư viện khu vực Tây Bắc Việt Nam, 2023.

Tài liệu tham khảo

1. Ủy ban dân tộc, Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2020.

HỒNG VÂN - HÙNG MẠNH

Nguồn: Tạp chí VHNT số 578, tháng 8-2024

;