Phát huy giá trị hò sông Mã trong phát triển du lịch ở Thanh Hóa

Là một loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc, hò sông Mã vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị nhân văn độc đáo, luôn được người dân xứ Thanh xem là “thương hiệu nhận diện”, phản ánh sắc thái văn hóa truyền thống của địa phương. Nằm trong dòng chảy chung dưới sự tác động, ảnh hưởng của thời đại, các di sản văn hóa nói chung và hò sông Mã nói riêng đang dần mai một. Vì vậy, công tác bảo tồn, phục dựng di sản có ý nghĩa quan trọng trong việc gìn giữ các di sản văn hóa truyền thống. Bên cạnh công tác bảo tồn, cần đẩy mạnh khai thác du lịch từ giá trị của di sản hò sông Mã và xây dựng sản phẩm du lịch đặc sắc thu hút du khách trong nước và quốc tế. Trên cơ sở đó, vừa thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa, vừa đóng góp cho phát triển kinh tế, xã hội.

1. Đôi nét về xuất xứ hò sông Mã

Ở Thanh Hóa, trong các thể loại hò, hò sông nước là phổ biến nhất, vì có nhiều điệu hò và số lượng lời hò có hàng ngàn câu. Sở dĩ hò sông nước xứ Thanh phong phú và đa dạng như vậy, bởi từ xa xưa giao thông đường thủy ở Thanh Hóa rất phát triển, gồm 4 hệ thống: sông Hoạt, sông Mã, sông Yên và sông Bạng, cộng với chi lưu của sông Mã. Với chiều dài thủy trình gồm chục vạn tầm (mỗi tầm bằng 8 thước ta đời Hậu Lê, tức 2,56m). Xưa kia, khi đường bộ chưa được mở mang, phương tiện vận tải ô tô chưa có, trên các con sông ngang dọc xứ Thanh biết bao là những con đò dọc, đò ngang, thuyền chiến, thuyền tải quân sự, thuyền mành chở hàng xuôi ngược... Đó là cơ sở, cái nôi của các điệu hò sông nước ra đời. Hò sông nước là sản phẩm tinh thần của những người làm nghề chài lưới sông nước. Tiếng hò của các trai đò dọc giao duyên với các cô khách hàng đò, họ cùng hò lên để giãi bày nỗi lòng của người giang hồ sông nước. Tiếng hò thúc giục các cuộc đua thuyền trong các dịp lễ hội, tiếng hò hùng mạnh gấp gáp của các chiến binh trên các chiến thuyền. Tiếng hò lúc khoan thai khi con thuyền xuôi dòng mát mái. Tiếng hò nặng nhọc khi con thuyền ngược nước, tiếng hò dứt khoát khi con đò vượt thác và tiếng hò háo hức khi con thuyền cập bến... Tiếng hò sông nước đó đã một thời vang vọng suốt chiều dài lịch sử. Theo các nhà nghiên cứu, những nhạc sĩ đầu tiên đặt danh xưng “hò sông Mã” cho loại hình nghệ thuật đặc sắc này là Lê Quang Nghệ và Mai Hoàng Lan. Tuy nhiên, phạm vi sưu tầm tư liệu của họ cũng chỉ từ Nam Ngạn (thành phố Thanh Hóa) lên tuyến nguồn và góc độ sưu tầm chủ yếu là phần nhạc điệu. Nghiên cứu về điệu hò sông Mã còn có nhóm Lam Sơn, nhóm này có những nghiên cứu phân tích, nhưng chủ yếu trên văn bản lời hò của người sưu tầm về văn học dân gian. Cách đặt tên của dân gian chủ yếu là người lái đò thì gọi là “hò đò dọc”. Hò sông Mã không phải chỉ trong phạm vi sông Mã, mà bao gồm cả 4 tuyến đi dọc nối với sông Mã. Tuyến thứ nhất gọi là “tuyến Nguồn” từ Hàm Rồng - Bến Ngự (thành phố Thanh Hóa) đi Hồi Xuân (huyện Quan Hóa); tuyến thứ hai là “tuyến Vạn” bắt đầu từ Bến Ngự đến Ngã Ba Đầu nguồn theo sông Chu lên đến Trịnh Vạn, huyện Thường Xuân; tuyến thứ ba là “tuyến Kim Tân” khởi đầu từ Bến Ngự đến Hồ Nam rẽ sang sông Bưởi đi Kim Tân, huyện Thạch Thành và tuyến cuối cùng là “tuyến Lạch” từ Bến Ngự đến Ngã Ba Bông rẽ theo sông Lèn xuống Lạch Sung, huyện Nga Sơn. Cả 4 tuyến này từ xa xưa đều có đò dọc, hành trình theo định kỳ thường xuyên và có rất nhiều bến đậu liên quan đến các chợ trung tâm của các địa phương. Đò dọc là đò chở khách buôn hàng chuyến từ các chợ tỉnh, mỗi tháng có 6 phiên vào các ngày 2, 7, 12, 17, 22, 27. Xưa kia bến trung tâm của đò dọc là bến Giàng vì tỉnh lỵ đặt ở làng Dương Xá. Đến năm Gia Long thứ 3 (1804) tỉnh lỵ mới chuyển về Thọ Hạc và từ đó Nam Ngạn - Bến Ngự mới trở thành bến trung tâm của đò dọc sông Mã (1).

2. Các làn điệu hò sông Mã

Hò sông Mã được chia ra nhiều làn điệu, nhưng phổ biến hơn cả vẫn là 5 làn chính, gồm: Hò rời bến, Hò đò xuôi, Hò đò ngược, Hò vác cạn, Hò cập bến (2). Còn theo nhiều nhà nghiên cứu, hò sông Mã có gần 20 làn điệu, mỗi làn lại có nhiều lời khác nhau, luyến láy đa dạng. Hầu hết các điệu hò sông Mã được hát theo lối xướng - xô, đối - đáp. Sau câu bắt nhịp của người cầm cái, các trai đò sẽ phụ họa theo, chủ yếu là những câu ngắn như: “dô tả, dô tà”, “dô khoan, hò khoan”... Nếu Hò rời bến phải vang, nhộn nhịp, khẩn trương mời khách xuống thuyền, thì Hò ngược thác lại tỏ rõ sự nặng nhọc, vất vả của tốp trai đò khi chống sào đẩy thuyền ngược dòng nước, cả câu xướng và xô trong hò ngược thác đều ngắn gọn. Khi qua đền, chùa, đôi khi còn được nghe Hò niệm phật êm ái, nhẹ nhàng, cầu mong chuyến đi thuận buồm xuôi gió. Khi thuyền đi sai lạch, vào bãi cát ngầm, trai đò vừa Hò mắc cạn, vừa lội xuống nước dùng sức vác thuyền hoặc dùng dây kéo thuyền qua chỗ sa lầy. Cùng với điệu hò khoan nhặt, lúc nặng nhọc, lúc miên man, tiếng mái chèo khua nước, tiếng chân giậm rộn rã xuống ván thuyền của trai đò đã tạo cho hò sông Mã nét khác biệt, độc nhất vô nhị. Đây chính là nét độc đáo nhất của hò sông Mã bởi tiếng giậm chân rộn rã lên mặt ván thuyền gắn với những giai điệu uyển chuyển nghe như nền đệm của nhạc cụ gõ. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định: âm nhạc hò sông Mã mang những nét đặc sắc rất riêng và “đậm đà bản sắc dân tộc”. Hò sông Mã là một nét sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của người dân nơi đây. Hình thức diễn xướng dân gian này không chỉ bộc lộ nỗi lòng mình với quê hương đất nước, mà còn làm giảm bớt những gánh nặng nhọc nhằn trong cuộc sống. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, hò sông Mã đã theo các đoàn dân công đi tiếp lương, tải đạn, các đoàn thuyền nan và được ứng dụng cả trong hành trình kéo pháo vào trận địa, để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Hò sông Mã là một thể loại dân ca đặc biệt của người dân Thanh Hóa. Về hình thức, chúng bao gồm nhiều thể thơ khác nhau: thơ 4 chữ, 7 chữ, 8 chữ, lục bát, song thất lục bát... nhưng phần lớn lời các làn điệu hò thuộc thể thơ lục bát. Nhịp điệu của các làn điệu hò chủ yếu là nhịp chẵn. Trong các chặng hò, nhịp điệu của các bài hò hoàn toàn khác nhau. Một mặt nhịp điệu phản ánh được hoạt động, tính chất nặng nhọc của công việc chèo đò, mặt khác nó phản ánh được tính chất dòng chảy của con sông và tâm trạng của những người chèo đò. Trong hò sông Mã, lời hò của làn điệu này có thể được sử dụng cho làn điệu khác. Tuy nhiên, nhịp điệu được sử dụng thì hoàn toàn thay đổi. Nhìn chung, hò sông Mã là làn điệu hò mở, việc ngắt nhịp không bị bó buộc trong một khuôn khổ nhất định. Người lĩnh xướng các làn điệu hò tùy theo khả năng của mình để ngắt nhịp sao cho phù hợp với nhịp chèo của các trai đò nhằm điều khiển nhịp chèo bằng âm nhạc. Vì thế, xét về số tiếng (âm tiết) nhịp của hò sông Mã có thể là 1 tiếng, 2 tiếng, 4 tiếng, 5 tiếng, 6 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng hoặc nhiều hơn phụ thuộc vào tốc độ đi của con đò, dòng chảy của con sông (3).

3. Thực trạng công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản

Trước sự mai một của hò sông Mã, tỉnh Thanh Hóa đã kết hợp cùng các tổ chức, viện nghiên cứu trong nước tiến hành công tác nghiên cứu, sưu tầm về di sản. Năm 1999, Viện Âm nhạc bắt tay thực hiện dự án Khôi phục, bảo tồn và phát triển văn hóa nghệ thuật truyền thống tiểu vùng sông Mã và tổ chức nhiều chuyến điền dã, phỏng vấn, ghi lại những làn điệu, cách diễn xướng của chính các nghệ nhân đã từng tham gia hát những điệu hò sông Mã. Những nỗ lực này đã giúp Thanh Hóa khôi phục được 10 điệu hò và khoảng vài chục lời hò trong tổ khúc hò sông Mã (4). Trên cơ sở các tư liệu âm thanh và hình ảnh ghi lại được từ dự án, năm 2002, Viện Âm nhạc đã phát hành một CD các làn điệu hò sông Mã và một VCD có lời bình mang tính khoa học và phổ cập. Năm 2007, Chi hội Bảo tồn, phục hồi ca trù và hò sông Mã ra đời với tổng số 25 hội viên do bà Trần Thị Huệ (trú tại huyện Hà Trung) làm Chi hội trưởng và đến năm 2018, Câu lạc bộ (CLB) Hò sông Mã, dân ca và nhạc cổ được thành lập với tổng số 25 thành viên, do ông Nguyễn Văn Long (xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung) làm chủ nhiệm. Từ năm 2007, Trung tâm Văn hóa tỉnh Thanh Hóa phối hợp với UBND huyện Hà Trung và Chi hội Bảo tồn, phục hồi ca trù và hò sông Mã tổ chức nhiều lớp dạy và học hát hò sông Mã; tổ chức lớp tập huấn bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ven sông Mã (5). Hiện nay, hoạt động trình diễn, trao truyền nghệ thuật hò sông Mã ở tỉnh chủ yếu phụ thuộc vào CLB Hò sông Mã. Đây được coi là lực lượng nòng cốt trong việc gìn giữ, phát huy giá trị di sản văn hóa. Đa số các nghệ nhân đều có sự đam mê, tự nguyện, tích cực tham gia học, hát và truyền dạy dân ca. Một số nghệ nhân - thành viên của CLB Hò sông Mã, dân ca và nhạc cổ là những người thực hành dân ca hò sông Mã chủ yếu xuất thân từ tầng lớp nông dân, kinh doanh buôn bán, nghề thủ công, cán bộ cơ sở, hưu trí... CLB không có sự hướng dẫn về chương trình, nội dung hoạt động, cũng như kinh phí hỗ trợ gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt đều đặn, làm ảnh hưởng đến việc thực hành và trao truyền dân ca hò sông Mã tại cộng đồng. Toàn bộ trong số họ không ai sống bằng nghề hát chuyên nghiệp, mà chỉ tham gia sinh hoạt dân ca trong các CLB do chính quyền (thôn, xã, trung tâm văn hóa) thành lập, kinh phí hoạt động trong CLB chủ yếu là tự túc, tự nguyện. Ngoài ra, mặc dù các nghệ nhân ở nhiều độ tuổi khác nhau, song người thực hành di sản hiện nay chủ yếu ở tuổi trung niên, chưa thu hút được nhiều đội ngũ kế cận. Đây cũng là một trong những khó khăn đối với việc duy trì, phát triển dân ca hò sông Mã hiện nay. Ngoài ra, lực lượng nghệ nhân dân gian nắm giữ, thực hành các bài bản cổ ngày một ít do tuổi cao sức yếu không đủ sức để truyền dạy. Bên cạnh đó lớp trẻ bận học ở trường, ít người hào hứng học nên người kế thừa trong gia đình, cộng đồng ngày càng ít… Trong số các nghệ nhân hát hò sông Mã, số người biết truyền dạy một cách bài bản và có kỹ thuật không còn nhiều, truyền dạy chủ yếu bằng phương thức truyền miệng và dưới hình thức sinh hoạt CLB, một số người thực hành hiện nay không nắm vững kỹ thuật trình diễn và nội dung các bài bản truyền thống. Do vậy, nguồn lực truyền dạy dân ca ngày càng khó khăn, cần thiết phải có chương trình đào tạo đội ngũ nghệ nhân trẻ kế cận. Về hoạt động kiểm kê di sản, ngày 9-5-2011, UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Kế hoạch số 27/KH-UBND về việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn I (2011-2012). Trên cơ sở đó, tỉnh đã ban hành quyết định số 2460/QĐ-UBND ngày 4-8-2014 về việc lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu tỉnh Thanh Hóa, đề nghị đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Ngành VHTTDL của tỉnh đã triển khai thành lập Ban kiểm kê cấp tỉnh và cấp huyện theo quy định; tổ chức các lớp tập huấn ở cấp tỉnh, cấp huyện để phổ biến quy định và hướng dẫn phương pháp tiến hành kiểm kê di sản. Theo kết quả báo cáo đánh giá 10 năm thực hiện Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30-6-2010 của Bộ VHTTDL quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể để đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, năm 2020, Trung tâm Bảo tồn di sản văn hóa tỉnh Thanh Hóa, đã hoàn thiện hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể hò sông Mã để đề xuất đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.

Trên phương diện đẩy mạnh phát huy giá trị di sản, trong khoảng gần 10 năm trở lại đây, một số chương trình du lịch nội tỉnh, chủ yếu là chương trình city tour ở thành phố Thanh Hóa đã bắt đầu tổ chức khai thác du lịch ở khu vực hạ lưu sông Mã. Năm 2015, Sở VHTTDL phối hợp với UBND thành phố Thanh Hóa đã khai trương tuyến du lịch Ngược xuôi sông Mã tại bến thuyền Hàm Rồng. Đây là tuyến du lịch đường thủy đầu tiên tại Thanh Hóa, đưa điệu hò sông Mã gắn với những con đò, trở về với môi trường diễn xướng mang giá trị đích thực của nó. Tuyến du lịch do Trung tâm phát triển du lịch sông Mã, thuộc Công ty Cổ phần Quản lý đường thủy nội địa và Xây dựng giao thông Thanh Hóa, đầu tư và khai thác, đã dần có được chỗ đứng nhất định. Đồng thời, có nhiều doanh nghiệp, hãng lữ hành đã đến khảo sát, trải nghiệm để đưa vào chương trình cung cấp dịch vụ du lịch cho khách. Hiện nay, với 3 tàu có khả năng phục vụ cao điểm gần 300 khách/ tour. Có thể nói, tuyến du lịch này về cơ bản đã tạo ra một loại hình sản phẩm du lịch tương đối mới mẻ, lý thú cho du lịch tỉnh. Mặc dù vậy, việc tổ chức khai thác, chủ yếu phục vụ du lịch gắn với di sản vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đẩy mạnh khai thác hết giá trị đích thực của di sản văn hóa cũng như có thể đẩy lên thành sản phẩm du lịch tạo thành đặc sản, điểm nhấn của du lịch Thanh Hóa.

4. Một số vấn đề đặt ra trong phát huy giá trị hò sông Mã trong hoạt động du lịch ở Thanh Hóa giai đoạn hiện nay

Hò sông Mã là nét văn hóa đặc sắc, gắn liền với cuộc sống của nhiều thế hệ người dân vùng sông nước xứ Thanh. Mặc dù vậy, để di sản văn hóa quý giá này trở thành tài sản tinh thần được gìn giữ và phát huy đúng nghĩa trong bối cảnh hiện nay, rất cần những cơ chế, chính sách cụ thể và hiệu quả hơn nữa. Trong giai đoạn 2021-2023, tỉnh cần sớm hoàn thiện hồ sơ công nhận hò sông Mã trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Bởi sau khi được công nhận mới có điều kiện tốt về mặt nguồn lực để phục vụ công tác đầu tư cho hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị và trên cơ sở đó, các chương trình, kế hoạch của tỉnh, đặc biệt là chương trình phát triển du lịch sẽ chủ động khai thác, đưa di sản vào hệ thống tuyến điểm du lịch đã có hiện nay.

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là việc duy trì thực hành nghệ thuật hò sông Mã có liên quan trực tiếp đến đội ngũ nghệ nhân. Duy trì tốt đội ngũ nghệ nhân và hoạt động của các CLB đã được thành lập. Đẩy mạnh công tác truyền dạy, có chính sách cụ thể nhằm tôn vinh danh hiệu cho các nghệ nhân, hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các CLB. Hiện nay, hoạt động duy trì thực hành nghệ thuật đang phụ thuộc vào đội ngũ nghệ nhân và cán bộ phong trào của huyện Hà Trung, ngành VHTTDL của tỉnh cần có chương trình kế hoạch cụ thể để vừa nhân rộng phong trào qua các hội thi, hội diễn, từ đó vừa thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quảng bá, mặt khác tìm ra được những hạt nhân phù hợp để bổ sung cho đội ngũ kế cận ở các địa bàn khu vực hạ lưu sông Mã. Mô hình lựa chọn, tìm kiếm các tài năng âm nhạc kế cận mà Nhà hát Ca Múa Kịch Lam Sơn đã tiến hành hơn 20 năm trở lại đây là một gợi ý đáng quan tâm. Tận dụng khai thác hoạt động đào tạo của các trường đại học địa phương chuyên ngành nghệ thuật. Nâng cao vai trò của các tổ chức nghiên cứu như Trung tâm Bảo tồn di sản văn hóa tỉnh Thanh Hóa, Hội Văn nghệ dân gian tỉnh, bảo tàng và thư viện tỉnh... Đây là những cơ quan chuyên sâu nghiên cứu văn học nghệ thuật, tổ chức tốt hoạt động kiểm kê, sưu tầm các loại hình di sản văn hóa. Đồng thời, tỉnh nên nghiên cứu đề án khả thi để thành lập Trung tâm Văn hóa hò sông Mã trên cơ sở nòng cốt là các CLB, nghệ nhân, cán bộ phong trào đang tham gia hoạt động trình diễn, bảo lưu giá trị di sản tại các địa phương do Sở VHTTDL quản lý trực tiếp. Từ đó kết nối với Hiệp hội Du lịch Thanh Hóa, các doanh nghiệp du lịch đưa nghệ thuật hò sông Mã vào những tuyến du lịch nội tỉnh, liên tỉnh gắn với các trọng điểm du lịch của tỉnh như khu du lịch biển Sầm Sơn, di sản văn hóa thế giới Thành nhà Hồ di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh, đền thờ Bà Triệu. Chú ý khai thác triệt để các tour, tuyến du lịch dọc sông Mã ở cả khu vực hạ lưu và thượng lưu. Đối với tuyến du lịch Ngược xuôi sông Mã tại bến thuyền Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa cần tổ chức một cách linh hoạt, ngoài chương trình cố định trên thuyền, ở mỗi khu vực bến đỗ như Ngã Ba Đầu, Ngã Ba Bông, đền Hàn... nên nghiên cứu xây dựng một số nhà biểu diễn nhỏ kết hợp với các hình thức thưởng ngoạn, trải nghiệm du lịch khác để đảm bảo tính phong phú, tránh nhàm chán (như tham quan di tích, tham gia trò chơi dân gian, du lịch trải nghiệm nông trại, xóm chài ven sông, chụp ảnh lưu niệm theo hình thức check-in theo nhu cầu giới trẻ...). Để quảng bá hò sông Mã tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng du khách đến với xứ Thanh, ở các khu/ điểm du lịch trong tỉnh nên phát các làn điệu, giai điệu hò sông Mã hoặc các ca khúc có âm hưởng hò sông Mã trên hệ thống âm thanh, bố trí khéo léo ở những khu vực như quầy mua vé, khu vực lễ tân, khu vực hướng dẫn. Trên hết, có thể thấy, môi trường diễn xướng nghệ thuật của di sản gắn liền với dòng sông Mã, do vậy công tác bảo vệ môi trường, bảo tồn các làng chài, bến đò ngược - xuôi sông Mã ở các địa bàn trong tỉnh hiện nay và tổ chức khai thác du lịch một cách có trách nhiệm, đậm chất văn hóa mộc mạc mang tinh thần, bản sắc xứ Thanh, thì mới hy vọng hò sông Mã không những có được không gian trình diễn đúng nghĩa mà còn duy trì tốt sức sống bền bỉ để hội nhập cùng xã hội hiện đại.

Thời gian qua công tác bảo tồn và phát huy giá trị hò sông Mã đã đạt được những kết quả nhất định, song, để phát huy giá trị di sản hiệu quả hơn nữa, đặc biệt là gắn bảo vệ, quảng bá di sản với khai thác du lịch của địa phương, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: tập trung chính sách và nguồn vốn đảm bảo cho các chương trình mục tiêu khôi phục và bảo vệ di sản văn hóa, các loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian nói chung, hò sông Mã nói riêng. Có chính sách phù hợp và cơ chế hỗ trợ thỏa đáng đối với các nghệ nhân thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị dân ca, dân vũ, diễn xướng dân gian truyền thống xứ Thanh. Tăng mức đầu tư cho công tác bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, nghệ thuật trình diễn dân gian; tiếp tục bố trí nguồn kinh phí để thực hiện việc kiểm kê di sản văn hóa trên địa bàn toàn tỉnh, làm cơ sở cho việc nhận diện những di sản văn hóa phi vật thể có giá trị cần được bảo tồn và phát huy phục vụ đời sống văn hóa tinh thần, góp phần phát triển kinh tế, xã hội.

Trong hoạt động khai thác du lịch, cần thiết đưa nội dung khôi phục, bảo tồn và phát huy giá trị hò sông Mã vào dự án thành phần của Đề án bảo tồn, phục dựng và phát huy giá trị dân ca, dân vũ tỉnh Thanh Hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2021-2030 trình UBND tỉnh phê duyệt kinh phí để triển khai thực hiện. Đối với các tour, tuyến và chương trình du lịch hiện tại đang khai thác giá trị hò sông Mã gắn với không gian văn hóa - du lịch Hàm Rồng, cần mở rộng độ dài và thời gian của các tour, điểm du lịch thêm phong phú. Kết hợp với các khu, điểm và không gian du lịch trọng điểm mới của tỉnh như Sầm Sơn, Hải Tiến, các tuyến du lịch theo hệ thống sông Mã, các thiết chế văn hóa như bảo tàng tỉnh... để kết nối hình thành các tour mở rộng và tour chuyên đề nhằm tận dụng lợi thế địa lý và tài nguyên văn hóa góp phần phát huy triệt để giá trị nghệ thuật hò sông Mã trở thành thương hiệu du lịch xứ Thanh.

 _________________

1. Sở VHTTDL Thanh Hóa, Lý lịch di sản văn hóa phi vật thể hò sông Mã, 2020, tr.11-12.

2. Phạm Quỳnh Trang, Tìm hiểu về hệ thống làn điệu hò sông Mã, Trường Đại học Sư phạm nghệ thuật Trung ương, 2016, tr.25.

3. Cao Xuân Hải, Đặc điểm cấu trúc hình thức và nhịp điệu của hò sông Mã, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa, 2018, tr.47.

4. Viện Âm nhạc, Dự án Khôi phục, bảo tồn và phát triển văn hóa nghệ thuật truyền thống tiểu vùng sông Mã, Hà Nội, 1999, tr.14.

5. Hoa Mai, Để hồi sinh điệu hò sông Mã, cand.com.vn, 6-7-2017.

TS LÊ THANH HÀ - Ths NGUYỄN THỊ KIM LIÊN

Nguồn: Tạp chí VHNT số 500, tháng 6-2022

;