Nobel văn học vẫn công bằng và quyến rũ

Từ nhiều năm nay, cứ vào cuối tháng chín, cư dân mạng toàn cầu lại sôi nổi dự đoán những ứng viên tiềm năng của Nobel văn học. Năm 2021, những cuộc đỏ đen trăm hình ngàn vẻ đó có định hướng khá rõ. Ấy là chủ trương của Viện Hàn lâm Thụy Điển, cơ quan xét giải, đa dạng hóa giải Nobel văn học. Công chúng văn học ngầm hiểu rằng Viện nỗ lực khắc phục những bất công tồn tại lâu nay. Chẳng hạn, các cây bút nữ được tôn vinh quá ít: trong 118 nhà văn được trao Nobel văn học từ 1901 tới năm 2020, chỉ 16 người thuộc phái đẹp; khoảng 92% người được giải sử dụng các ngôn ngữ chính của châu Âu, đa phần họ là người châu lục này (đứng đầu là Pháp với 15 nhà văn, Mỹ 13, Anh 11, Đức 8, Thụy Điển 8, trong khi châu Á có 4, châu Phi có 4).

Nhà văn người Kénya - Ngũgĩ wa Thiong’o

Năm 2021, phái yếu được cư dân mạng bình chọn nhiều. Trước hết, xin điểm qua: nữ trưởng lão Mỹ Joyce Carol Oates, 83 tuổi, đã công bố hơn trăm tác phẩm. Bà là một trong những cây bút dồi dào, đa dạng, phong phú, toàn diện rất hiếm thời nay, giá trị cốt lõi là tính nhân bản sâu sắc đến kinh ngạc. Margaret Atwood, 82 tuổi, có tiếng tăm văn học, là “chiến sĩ nữ quyền lỗi lạc” vượt biên giới Canada đã lâu, với tiểu thuyết The Handdess’s Tale (Câu chuyện về người hầu gái), 1985 - một hiện tượng văn chương và điện ảnh thế giới, đồng thời cũng là tiến sĩ danh dự của 24 trường đại học toàn cầu. Bên cạnh đó, phải kể đến Anne Carson, 71 tuổi, tài đức vẹn toàn, được coi là nhà trí thức trụ cột, vầng mặt trời trí tuệ của Bắc Mỹ.

 Bên cạnh đó, cư dân mạng đề cử nhiều gương mặt mới. Ví như nữ văn hào Nga Lioudmila Oulitskaia, 78 tuổi, người kế tục xứng đáng những tên tuổi vĩ đại của văn học Nga - nền văn học thấm đẫm đạo đức nhân dân từ ngàn đời, nồng nàn nhân bản. Vài năm nay, tên bà thường xuất hiện ở đầu các bảng đề cử cho Nobel văn học trên mạng… Người xuất hiện lần đầu tiên trên các trang đỏ đen Nobel là Annie Ernaux, 81 tuổi, “dòng dõi công nhân”, nhà văn Pháp dấn thân gạo cội. Sau nhiều tác phẩm hư cấu, bà chuyển hẳn sang tự truyện, đặc biệt là hồi ức tuổi thơ và đạt được những thành công vang dội toàn thế giới. Những tác phẩm kiểu tự truyện của bà phát hiện một điều căn cốt của đời sống nhân loại, đó là số phận cá nhân không thể tách rời số phận cộng đồng. Nữ văn sĩ người Pháp Mayse Condé, 84 tuổi, đoạt giải Nobel văn học bổ khuyết năm 2018, vẫn được xướng tên trong các đề cử Nobel vài năm nay, nức tiếng với hoạt động đấu tranh cho quyền lợi phụ nữ và chống phân biệt chủng tộc. So với đàn chị, Annie Ernaux xông xáo, năng nổ, quyết liệt và sâu rộng hơn trong cuộc chiến đấu cho lương tri và lẽ phải, cho khoa học đích thực, nền tảng của mọi quyết sách lớn nhỏ của mọi xã hội. Bà lên tiếng phản bác, phản biện nhạy bén và kịp thời những quan điểm hoặc hành động sai trái về khoa học, văn hóa, chính trị, kể cả của Tổng thống và Chính phủ… Việc bà được cư dân mạng tung hô nồng nhiệt năm nay chứng tỏ hiện công chúng văn học đã hiểu ý tưởng sâu xa của Alfred Nobel (1833-1896) - nhà bác học Thụy Điển, người khởi xướng các giải Nobel - về tuyên dương văn học: Nobel này dành cho sự nghiệp văn học “tỏ rõ một lý tưởng mạnh mẽ”. Như thế, tác phẩm phải tích cực và kiêu dũng, người viết phải là một nhà hoạt động xã hội tiến bộ. Một trăm hai mươi năm qua, vinh quang này thường đến với những ngòi bút dấn thân thực sự như Annie Ernaux bây giờ…

 Điều vừa nêu có lẽ lý giải thỏa đáng sự thật rằng, hễ mùa Nobel tới, người ta lại ngậm ngùi trước danh sách ngày càng dài của những ngòi bút tài năng hơn người bị Nobel phớt lờ: Philip Roth, Amos Oz, Ismail Kadaré, Milan Kundéra, Adonis, Ko Un, Claudio Magris… Sắp tới, hẳn là Haruki Murakami, năm nay 72 tuổi, cây bút Nhật Bản sừng sỏ tầm vóc toàn cầu này tiếp tục được cư dân mạng bầu chọn ở tốp đỉnh cho Nobel văn học. Gần đây, thủ đô Tokyo dành riêng cho ông một thư viện. Sự tôn vinh có lẽ chưa nhà văn nào được hưởng, hình như cũng không tăng điểm cho ông để ông trúng giải!... Công chúng văn học hy vọng Nobel sẽ phá lệ lâu nay, chỉ tôn vinh tự sự nghiêm chỉnh, chưa bao giờ ngó ngàng tới ngôn tình hay trinh thám hình sự… Vì vậy năm nay, họ hào hứng đề cừ ông trùm truyện hình sự thế giới người Mỹ Stephen King, 74 tuổi. Những vấn đề nóng bỏng (tôn giáo và chấn thương tôn giáo, phân biệt chủng tộc, lạm dụng tình dục…) đều được đề cập hấp dẫn. Tác phẩm của ông với hơn 60 tiểu thuyết, hơn 200 truyện ngắn… đã tiêu thụ trên 350 triệu bản trên toàn cầu. Ông được tặng gần 40 giải thưởng các loại, đặc biệt Huy chương Nghệ thuật quốc gia do cựu Tổng thống Mỹ Obama đích thân trao tại Nhà Trắng… Nếu châu Á được Nobel này vinh danh ngay từ năm 1913 với R.Tagore (1861-1941), thi hào Ấn Độ, thì châu Phi mãi năm 1986 mới được nhận vinh dự ấy, dành cho Wole Soyinka, sinh năm 1934, tại Nigeria. Nhưng những Nobel văn học của lục địa đen thật đáng nể. Sau Soyinka là Naguib Mahfouz (1911-2006) đoạt giải năm 1988; Nadine Gordimer (1923-2014) đoạt giải 1991; J.M.Coetzee, sinh năm 1940, đoạt giải 2003. Họ lưu dấu ấn đẹp trên hành tinh về khát vọng sống và niềm lạc quan vào tương lai của đồng bào mình. Cảm động hơn cả là hiện tượng Naguib Mahfouz. Ông am hiểu sâu rộng và tiếp thu được nhiều bài học sâu sắc từ những nền văn học lớn của nhân loại. Ông gắn bó ruột gan với thành phố Cairo, Ai Cập. Ông thấm nhuần những phép xử thế căn cốt của thời đại và của nhân loại. Do đó, ông luôn ủng hộ các giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột giữa các vùng miền, các quốc gia… Ông chú trọng chung sống hòa bình. Ông không tán thành tư tưởng độc quyền hoặc cực đoan tôn giáo. Một nhóm cực đoan tôn giáo đã ám sát ông, nhưng ông thoát nạn. Về sau, ông tha thứ cho những kẻ định giết mình. Chính vì vậy, ông trở thành một tấm gương của hòa bình nhân bản và bao dung thiết thực. Với cái hồn yêu thương dịu dàng và thăm thẳm đối với đất nước và con người, văn học của ông càng cuốn hút vì phảng phất hương vị thần kỳ của những Balzac, Zola, Dickens, Tolstoi, Proust, Faulkner, Galsworthy… Văn học Naguib Mahfouz khẳng định một lần nữa luật của muôn đời: Linh hồn của xã hội là yêu thương chuẩn mực; động lực của yêu thương ấy là tư tưởng chuẩn mực (hòa bình, bao dung, vị tha, bình đẳng); năng lượng của yêu thương là khát vọng, kiểm soát và điều chỉnh chung của cộng đồng… Khi qua đời, ông là nhà văn hiếm hoi được nhiều chính khách, như cựu Bộ trưởng Văn hóa và Thông tin Pháp Renaud Donnedieu de Vabres, nhiều nguyên thủ quốc gia, như vợ chồng cựu Tổng thống Mỹ George Bush… bày tỏ lòng tri ân, tôn kính và chia buồn cùng gia đình. Tiêu biểu là lời của Tổng thống Pháp bấy giờ Jacques Chirac (1932-2019): “Biết tin Naguib Mahfouz đi xa, tôi vô cùng xúc động… Cùng với ông, một gương mặt ngời sáng của văn học thế giới, một con người của hòa bình, của bao dung và của đối thoại đã vĩnh biệt chúng ta… Qua tác phẩm của mình, ông đã miêu tả xã hội Ai Cập với tấm lòng, sự tinh tế và chủ nghĩa hiện thực… Là nhà văn Ai Cập đầu tiên nhận giải Nobel văn học năm 1988, ông đã làm cho văn học Ai Cập và thành phố Cairo cổ kính của tuổi thơ ông nổi danh trên toàn cầu”.

 Hiện tượng Naguib Mahfouz được nhắc tới nhiều trong mùa Nobel 2021. Viện Hàn lâm Thụy Điển hẳn phải nỗ lực hơn nữa để phát hiện thật hết những ngòi bút kim cương như ông, đang đâu đó ở những xứ sở được coi là lạc hậu, chậm phát triển. Gần hai thập kỷ nay, châu Phi mong mỏi Nobel văn học thứ năm của mình. Người được nghĩ tới nhiều hơn cả hẳn là nhà ba trong một (nhà văn, nhà tư tưởng, giáo sư đại học) Ngũgĩ wa Thiong’o, công dân Kénya, năm nay 83 tuổi. Ông hội tụ nhiều nét căn bản của những Nobel sáng giá bậc nhất: cái riêng độc đáo, lý tưởng (văn học) hùng mạnh, dấn thân hết mình. Sau thành công vang dội của nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Anh, từ 1983, ông chuyển hẳn sang viết bằng tiếng mẹ đẻ, thổ ngữ kikuyu, để đối thoại trực diện với dân tộc mình, mảng độc giả ông ưu tiên số một. Dĩ nhiên, sách của ông vẫn được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Ông nhấn mạnh rằng trí tuệ đúng nghĩa là trí tuệ được độc lập; văn học phải là một công cụ hòa bình; dân châu Phi cần biết đánh giá cao bản thân… Tính chiến đấu cho ấm no, tự do, công bằng, nhân phẩm và dân chủ trong sáng tác của ông đạt tới tột đỉnh. Vì vậy, ông từng bị chính quyền bỏ tù, không ít tác phẩm bị cấm, một nhà hát dựng một vở kịch nhạy cảm của ông bị san trụi… Ông phải tha hương gần như vĩnh cửu. Năm 2004, ông cùng vợ trở về Tổ quốc, sau 22 năm xa xứ. Một đêm khuya, ông và vợ bừng tỉnh vì nhà bị bốn kẻ lăm lăm vũ khí đột nhập. Chúng hãm hiếp vợ ông ngay trước mắt ông. Chúng đánh đập và đốt mặt ông khi ông định tự vệ… Chuyện hy hữu, năm nào cũng vậy, Nobel văn học vừa được công bố, thế nào cũng có nhà báo tới thăm ông và buồn rầu cho biết ông vẫn trượt giải, dù giải đó, ông không mấy mặn mà… Năm 2012, trong hồi ký của mình, ông bày tỏ lòng ngưỡng vọng vô bờ bến đối với văn học Pháp, nhất là với Louis - Ferdinad Céline (1894-1961), tác giả của Journey to the end of the night (Hành trình đến tận cùng đêm tối), tác phẩm phản biện xã hội số một. Ông dự kiến dịch toàn bộ tác phẩm của Céline sang tiếng mẹ đẻ. Có lẽ Thiong’o không biết, LF.Céline ủng hộ tội diệt chủng Do Thái, thậm chí ủng hộ Hitler. Đấy là lý do, Céline bị loại khỏi diện xét tặng Nobel văn học. Đã thành thông lệ, Nobel văn học không vinh danh những cây bút thân gần hoặc tán thành các nhà độc tài. Tôn sùng Céline, khác nào tán thành tội ác hủy hoại nhân loại của trùm phát xít Đức. Và thế là Thiong’o bị Nobel gạt đi.

Bìa ấn phẩm Paradise (Thiên đường) của nhà văn Abdulrazak Gurnah

Công chúng văn học không thất vọng: châu Phi năm 2021 được Nobel công kênh trong ngỡ ngàng xúc động hiếm thấy. Ngày 7-10-2021, khi được Viện Hàn lâm Thụy Điển thông báo mình trúng giải, chính nhà văn kiêm nhà sư phạm và nhà xây dựng quyết sách chính trị Tanzania Abdulrazak Gurnah, 73 tuổi, cũng sửng sốt, đáp ngay rằng ông chưa hề nghĩ mình xứng đáng với Nobel… và đây là một trò đùa (?!). Các nhà xuất bản từng hoặc đang phát hành sách của ông, ngay cả nhà xuất bản Thụy Điển Henrik Celander, gần như tá hỏa trước các nhà báo căn vặn. Hàng chục trang ăn thua Nobel khắp nơi, sừng sỏ nhất là Ladbrokes của quốc đảo sương mù, bắt đầu tự chế giễu: trong nửa tháng đồn đoán người đoạt giải, không trang nào ghi tên Gurnah! Giới chuyên môn văn hóa và văn học thì điềm tĩnh. Một đôi giờ sau khi Nobel văn học 2021 có chủ, giới ấy lẻ tẻ lên tiếng: Viện Hàn lâm Thụy Điển không lầm... Thực ra, trung tâm sự nghiệp văn học và dấn thân của Abdulrazak Gurnah là chế độ thực dân và vấn nạn di cư. Di cư đang là vấn đề toàn cầu nóng bỏng bậc nhất. Viện trao giải cho A.Gurnah “Vì (văn chương của ông) đào sâu tận cùng, phân tích một cách thẳng thắn và thấm thía những hệ quả của chế độ thực dân, thân phận người tị nạn bị kẹt hãm trong vực thẳm giữa các nền văn hóa và các lục địa”. Viện nhấn mạnh thêm: “Tác phẩm của ông rời xa những kiểu diễn đạt nhạt nhẽo tầm thường quen thuộc và mở cho chúng ta nhìn thấy một Đông Phi khác biệt về văn hóa, khu vực ít được biết đến hay biết đến sai lầm tại nhiều nơi trên thế giới”. Đột nhiên, khắp nơi nhắc lại sôi nổi một kiệt tác của ông, công bố năm 1994, đó là tiểu thuyết Paradise (Thiên đường). Tác phẩm đề cập đến chuyện một thanh niên da đen bị bố mẹ gán nợ (dưới vỏ bọc con nuôi) cho một tay trùm buôn đường dài (dưới danh nghĩa cậu ruột). Cậu bị biến thành một nô lệ trá hình: chở hàng, thường là hàng lậu, dấn thân vào rừng rậm đầy rủi ro nguy hiểm; làm trò trêu chọc, giải trí cho cánh lớn tuổi hơn cùng làm, thường cũng là con tin gán nợ; thành nô lệ tình dục căng thẳng cho bà chủ, một người phụ nữ góa chồng giàu sụ, khối của cải đồ sộ của mụ khiến mụ thành vợ của ông trùm… Cậu tìm lối thoát bằng cách làm lính đánh thuê cho người Đức, bấy giờ tranh giành thuộc địa với người Anh… Cậu lại chui vào một địa ngục trần gian khác… Địa ngục ấy do con người, thậm chí người ruột thịt dựng nên, vô tình khiến cho những người yếu thế, trong đó có con cháu của họ, phải tị nạn ngay trên quê hương mình.

 Không trải nghiệm thực sự, không thể viết được chân thật đến thế. Sinh ra ở một hòn đảo, giờ thuộc Tanzania, năm 18 tuổi, Abdulrazak Gurnah sang Anh tị nạn để thoát nguy cơ bị giết ở quê, vì chủ nghĩa khủng bố hoành hành. Ở Anh, ông lao vào học tập, trở thành một giáo sư đại học. Tiểu thuyết đầu tay ra đời năm 1987. Tới nay, ông đã công bố 10 tiểu thuyết, nhiều tập truyện ngắn và nghiên cứu phê bình. Đáng chú ý, ông bỏ nhiều công sức nghiên cứu và giới thiệu Ngũgĩ wa Thiong’o, bậc tiền bối mà ông tiếp thu được nhiều bài học quý báu, về văn chương, về cảm nhận nhân tình thế thái. Những tưởng Thiong’o sẽ được tặng Nobel văn học, song thực tế, trò đã thắng thày! Năm nay, những phiên họp kín trao đổi về năm người chung kết Nobel văn học của Viện Hàn lâm Thụy Điển đã không bị rò rỉ. Trong mấy tháng liền, các viện sĩ đọc tác phẩm của năm cây bút, trong đó có A.Gurnah và tiểu thuyết Paradise (Thiên đường) của ông. Như vừa đề cập bên trên, cuốn sách khắc họa chính xác chân dung một lớp trẻ châu Phi thường xuyên bị đe dọa bởi lợi ích của các ông to bà lớn, bởi những thăng trầm của các chế độ chính trị, bởi những đảo lộn của thời cuộc. Sự thật phũ phàng ấy là nguyên nhân chủ yếu của di dân và tị nạn. Thảm họa này sẽ được hóa giải nếu những phi lý ấy bị xóa bỏ. Việc xóa bỏ này nhất định còn lâu dài… Không dừng ở sự thật vừa nêu, từ nhiều năm qua, Abdulrazak Gurnah liên tiếp nhắc lại sự thật: nhìn tổng thể, dân di cư không kém cỏi, đáng thương hại; họ đến với Âu Mỹ không phải với bàn tay trắng; họ là một nguồn của cải cần được khai thác khoa học. Không hiểu cựu Thủ tướng Đức Agela Merkel có biết tới ý tưởng này không. Nhưng bà đã xử lý thỏa đáng vấn đề di dân và tị nạn. Như vậy, Abdulrazak Gurnah đã và đang dấn thân ở cấp cao nhất: tư tưởng đúng sẽ đưa tới hành động đúng. Ông xứng đáng với Nobel văn học. Là cây bút châu Phi thứ năm, nhà văn da đen thứ hai của châu lục đạt vinh quang cao quý nhất này, ông đem về cho nhân dân Tanzania và châu Phi niềm kiêu hãnh trọn vẹn.

TRẦN BÍCH NGA

Nguồn: Tạp chí VHNT số 485, tháng 1-2022

;