KHÔNG - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ ĐƯƠNG ĐẠI

Truyện ngắn nữ đương đại ở Việt Nam thực sự là một hiện tượng độc đáo cần nhiều lời giải mã, đã tạo dựng được một thế giới nghệ thuật mang nét đặc trưng của phái nữ. Trong hệ quy chiếu không gian, thời gian nghệ thuật, những cặp tương quan không gian, những cảm thức về thời gian đã cho thấy một chiều sâu cảm thụ luôn hướng về gia đình, sự ổn định, nguồn cội, thấm đẫm cảm xúc, cảm giác của chủ quan con người. Thời gian nghệ thuật là “ý thức, cảm giác về sự vận động, đổi thay của thế giới trong các hình thức đa dạng của thời gian” (1). Không gian nghệ thuật “biểu hiện mô hình thế giới của con người, thể hiện quan niệm về trật tự thế giới, sự lựa chọn của con người” (2). Được coi là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ, là một hình tượng nghệ thuật, phản ánh quan niệm của nhà văn về thế giới, con người, cho thấy tư duy, chiều sâu cảm thụ của họ.

Tương quan không gian tiêu biểu trong truyện ngắn nữ đương đại

Không gian gia đình, sự xê dịch ra khỏi không gian gia đình

Một tỷ lệ lớn truyện ngắn nữ chọn không gian gia đình làm nền cảnh cho câu chuyện, nhất là những câu chuyện mà nhân vật chính là những người phụ nữ. Dường như đó là môi trường thích hợp nhất để người phụ nữ thể hiện mình, cả những thiên chức, thiên tính cao cả, những khát khao bản năng, con người trần thế… Ở đó diễn ra cuộc sống sinh hoạt thường ngày, những mối quan hệ của các thành viên trong gia đình. Chúng ta cũng cảm nhận được những vang hưởng của hiện thực xã hội in bóng trong đó: những mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự thay đổi quan niệm, giá trị sống của con người đương đại… Nhưng điều quan trọng là không gian gia đình đã trở thành không gian nghệ thuật bởi nó gắn với cảm nhận của phái nữ khi tồn tại trong đó. Người phụ nữ đã làm tròn bổn phận của mình trong vai trò người vợ, người mẹ, nhưng họ thấm thía một điều rằng bổn phận làm vợ, làm mẹ đã nhốt họ trong cái lồng gia đình không khóa mà thật chặt. Với những công việc bếp núc tỉ mẩn, tính toán chi li, lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ, nhàm chán, không gian gia đình chất chứa trong đó ý thức về sự giam hãm, quẩn quanh, xơ cứng dần tình cảm vợ chồng cùng những ước vọng lãng mạn, bay bổng: “Ngày nào em cũng thấy mòn đi, mỗi ngày một tí, một tí… Em trở nên đần độn, trì trệ, quẩn quanh ở xó bếp, xó cửa… Chỉ mươi năm nữa, em thành một cụ già bốn mươi tuổi, không ai nhận ra em nữa” (3). Chính vì thế trong không gian ấy, người phụ nữ luôn có xu hướng muốn vượt thoát ra ngoài, muốn được nếm trải cảm giác mới lạ hơn. Sự xê dịch ra khỏi không gian gia đình qua những chuyến công tác hoặc bằng những cuộc phiêu lưu tình ái là một đối nghịch với không gian gia đình tù túng.

Khi phải làm tròn vai người vợ, người mẹ trong gia đình, Lan trong Một nửa cuộc đời của Nguyễn Thị Thu Huệ cảm thấy cuộc sống thật buồn tẻ, còn mình thì cứ lọ mọ như một mụ già xẩm sờ xó bếp. Lúc xê dịch ra khỏi không gian gia đình, trước biển trời bao la, thơ mộng, bên người tình, cô cảm thấy cuộc sống thật tuyệt vời, còn mình thì như cô gái mới lớn, non trẻ, nhỏ bé bên người tình. Trong Cánh cửa thứ chín của Trần Thùy Mai, cuộc vượt thoát, dẫu chỉ là bằng tưởng tượng ra khỏi không gian căn nhà với bốn bức tường rêu, với nhịp điệu cuộc sống vợ chồng đơn điệu đến rời rạc đã giải tỏa những dồn nén không biết chia sẻ cùng ai của người phụ nữ, đã đưa cô đến những vùng đất rất xa mà cô chưa từng thấy bao giờ. Ở đó cô được hòa vào thiên nhiên bao la, sống động, được giãi bày nỗi lòng với một người luôn muốn lắng nghe, thấu hiểu cô. Cuộc ngoại tình trong tư tưởng đã khiến trong bốn bức tường rêu đã có cả biển trời, cô như được hồi sinh trong sự xê dịch không gian đó.

Nhưng vượt thoát ra khỏi không gian gia đình đến một không gian mới, với những nếm trải mới, sau những thăng hoa cảm xúc ban đầu, người phụ nữ lại nhanh chóng rơi vào một trạng thái tình cảm khác, đó là sự bất ổn, nỗi cô đơn. Những người phụ nữ trong Cam ngọt, Một nửa cuộc đời, Cơn mưa cuối mùa, Cánh cửa thứ chín… sau những phút giây thư thái như lên tận chín tầng mây ở không gian mới lại sống trong sự day dứt của lương tâm, trách nhiệm, họ quay trở lại không gian gia đình với một ý thức chủ động hơn.

Như vậy, trong sự dịch chuyển, ta thấy cặp không gian gia đình, sự xê dịch ra khỏi không gian gia đình liên tục biến đổi ý niệm của con người cảm nhận về nó: không gian gia đình thoạt đầu là sự giam hãm, bó buộc, bào mòn người phụ nữ, khi đó không gian xê dịch khỏi nó là sự giải thoát, hồi sinh; nhưng khi không gian xê dịch ra khỏi gia đình mang sự bất ổn thì không gian gia đình lại trở thành chốn trở về bình yên, an phận. Cặp tương quan không gian này đã phản chiếu cuộc đời khép kín vào chức phận với gia đình của người phụ nữ, đồng thời cũng bộc lộ thế giới nội tâm nhiều giằng xé của họ. Dẫu có những phút giây đối diện với những khát khao mang tính bản năng nhưng thường bao giờ cuối cùng người phụ nữ cũng tìm trở về, đứng vững trong thiên chức vốn có của mình. Sự xê dịch không gian ra khỏi gia đình chỉ là một phép thử cho cuộc sống mỗi con người.

Không gian căn phòng, hồi tưởng

Như một hình thức hữu hiệu để đi sâu vào đời sống cá nhân, nhất là thân phận của những người phụ nữ, trở đi trở lại trong nhiều truyện ngắn nữ là không gian chật hẹp của những căn phòng. Đó là không gian cách biệt với cuộc sống xung quanh, khi hiện hữu trong đó, con người phải đối diện với chính mình, với những chiêm nghiệm, suy tưởng. Đó là không gian của nỗi cô đơn đặc quánh.

Người đàn bà ba mươi tám tuổi xinh đẹp chưa chồng trong Giai nhân của Nguyễn Thị Thu Huệ đã tự giam mình ba ngày để quanh quẩn trong bốn bức tường, dọn dẹp lặt vặt, chờ tiếng chuông điện thoại, tiếng gõ cửa của một ai đó để nhắc rằng người ta vẫn nhớ đến cô nhưng tuyệt nhiên không có. Chính trong sự chật hẹp, lẻ loi này cô mới nhìn thấu cuộc đời mình, ý thức được sâu sắc tình cảnh cô độc của mình trong hiện tại, tương lai. Người phụ nữ trong Người đàn bà có ma lực của Y Ban cũng khép mình trong căn phòng nhỏ, đối lập với thế giới của những than thở, lao xao, tiếng dao thớt lách cách bên hàng xóm vọng sang như tiếng mõ nguyện để gặm nhấm nỗi cô đơn, lạc lõng của chính mình. Không gian căn phòng chính là không gian của đời tư, của số phận con người. Qua Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Nhân tình của Y Ban, Hậu thiên đường của Nguyễn Thị Thu Huệ, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thúy, Hồng trần của Chu Thị Minh Huệ… không gian căn phòng đã trở thành một nỗi ám ảnh trên những trang viết của các nhà văn nữ. Đó không phải là không gian của hạnh phúc mà là không gian hiện diện nỗi cô đơn dai dẳng, số phận bất hạnh của những người phụ nữ.

Chính lúc con người bị bủa vây bởi sự cô độc, giữa bốn bức tường chật hẹp thì không gian hồi tưởng xuất hiện, gắn với suy tưởng của nhân vật về quãng đời trong quá khứ của mình, thường là đối lập với hiện tại. Trước tình cảnh thất thế trong hiện tại, người đàn bà tên Sao sống lại thời quá khứ huy hoàng của mình, thời của một giai nhân. Trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, khi phải nằm tại căn phòng vô sinh ngột ngạt, cô gái, một bệnh nhân Cô Vắc đã chống chọi lại nỗi đau đớn, sự giằng xé, trống trải trong tâm hồn bằng thế giới của kỷ niệm tuổi thơ, của tình yêu trong sáng, đầy say mê đầu đời… Thời gian quá khứ đã trở thành một chiều của không gian, tạo thành hồi tưởng, chất chứa bao nỗi niềm của nhân vật. Nó thường lưu giữ một quãng đời đẹp của con người, vì thế đó là không gian của hạnh phúc, của khát khao. Song hành cùng không gian căn phòng chật hẹp, hồi ức xuất hiện như một sự giải tỏa, một chốn bấu víu, nương tựa của con người mất thăng bằng trong cuộc sống hiện tại.

Cặp không gian căn phòng, hồi tưởng đã hỗ trợ cho nhau để cùng soi sáng số phận, thân phận, thế giới nội tâm của con người, nhất là những người phụ nữ.

Không gian miền quê, thành phố

Trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, cô gái, bệnh nhân Cô Vắc đã viết những dòng cảm nhận về hai không gian gắn với tuổi thơ của mình, cảm nhận của cô trong câu chuyện cũng là cảm quan chung của các nhà văn nữ trước cặp không gian nông thôn, thành thị.

Khác với truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, không gian nông thôn chứa đầy những dự cảm lo âu trước bao sự xáo trộn của cuộc sống hiện đại, không gian miền quê trong truyện ngắn nữ luôn là chốn bình yên tuyệt đối cho sự neo đậu tâm hồn, là chỗ dựa vững chãi cho tinh thần, tâm linh con người tìm về mỗi khi vấp ngã. Đó là vườn cây mát rười rượi, quanh năm cho trái chín ngọt ngon, mỗi sáng sớm trong lành được nghe bản giao hưởng của đàn chim thân thuộc trong Tiếng chim trong vườn của Kim Quyên; đó là Thung Lam của Hồ Thị Ngọc Hoài, hoang sơ mà hùng vĩ, khoáng đạt, luôn mở lòng đón đứa con xa quê trở về, giữ trọn tuổi thơ êm đẹp, xoa dịu những nỗi đau đường đời của con người; là miền thôn quê với bờ ao, cây khế, những con người chân chất thật thà trong Thiêu thân của Thùy Dương… Những không gian trong trẻo ấy đã neo đậu trong những trang văn nữ, như là nguồn cội, như là chốn thiêng liêng trong tâm khảm mỗi người dân đất Việt.

Đối lập với không gian miền quê, không gian thành phố dưới cái nhìn của các nhà văn nữ chất chứa đầy những bất ổn, những cám dỗ khiến con người dễ sa ngã như trong: Thiêu thân, Tiệm may Sài Gòn của Phạm Thị Hoài, Xin hãy tin em của Nguyễn Thị Thu Huệ… Sự di chuyển không gian từ nông thôn lên thành thị thường mang theo cảm giác bất an, thiếu chỗ dựa vững chắc, chạm mặt vào không khí náo nhiệt, ồn ã của thành phố bỗng thấy chới với, như cái cây vừa mới bứt lìa ra khỏi nguồn cội, như con chim vừa rời tổ ấm. Không gian thành thị gắn với những dự cảm không mấy tốt đẹp về một cuộc sống nhiều cạm bẫy.

Những cặp tương quan không gian tiêu biểu trong truyện ngắn nữ đã dựng lên mô hình thế giới dưới cái nhìn của các nhà văn nữ. Ở đó có sự phân chia thành các thái cực với những đường ranh giới mong manh mà chỉ cần vượt qua nó con người đã có thể biến đổi thành một số phận, thân phận, tính cách khác. Với quan niệm ẩn chứa trong mỗi cặp không gian, chúng ta hiểu rằng sự lựa chọn của phái nữ bao giờ cũng hướng đến gia đình, cội nguồn, đến sự bình yên, ổn định, những giá trị bền vững.                 

Cảm thức thời gian trong truyện ngắn nữ đương đại

Sự trôi chảy của dòng thời gian

Vẫn biết thời gian trôi đi tuần hoàn, cuộc đời con người thì ngắn ngủi, hữu hạn trong cái vòng quay vô hạn của đất trời, nhưng khi điều này được thể hiện trên những trang văn nữ nó vẫn khiến người ta ám ảnh khôn nguôi về quy luật nghiệt ngã của thời gian. Nó hiện hữu trong tấm lưng còng của mẹ, trong nắm tro tàn của cha ở Ngải đắng ở trên núi của Đỗ Bích Thúy, Đi thăm cha của Phan Thị Vàng Anh, Minu xinh đẹp của Nguyễn Thị Thu Huệ. Trong cảm nhận của phái nữ, sự tàn phai của nhan sắc có lẽ là biểu hiện nhạy cảm nhất của bước đi thời gian. Biết bao giai nhân đã không khỏi đớn đau khi soi vào hình bóng của mình, nhận ra tuổi già đã lấy đi nhan sắc của họ rất nhiều.

Trong cuộc sống thường nhật, đặc biệt trong không gian gia đình, bước đi của thời gian được đánh dấu bằng những công việc, sinh hoạt cụ thể, đều đặn của con người, bữa sáng người vợ chuẩn bị cho chồng, buổi chiều người vợ hí húi bên cái bếp than tổ ong, túi bụi nấu cơm cho gia đình… Những công việc lặp đi lặp lại ấy, bước đi tuần tự của thời gian ấy, nhiều khi trở thành cái vòng luẩn quẩn đến nhàm chán, đơn điệu trong tâm thức của người phụ nữ. Sự trôi chảy của thời gian đeo nặng trên đó sự mệt mỏi, nỗi cô đơn vì không chia sẻ được cùng ai những phiền muộn,  lỉnh kỉnh của cuộc sống thường ngày.

Sự trôi chảy của dòng thời gian trên những trang văn nữ nặng trĩu bao suy tư, chiêm nghiệm, ẩn chứa trong đó cả xúc cảm mang tính chất thương thân của người phụ nữ.                                                    

Thời gian không trôi mất

Thời gian không trôi mất là cái nhìn của tình yêu, một tình yêu mê đắm đến tôn thờ mà ta bắt gặp trong rất nhiều câu chuyện của các nhà văn nữ. Đêm ngâu vào của Đoàn Lê cũng kể về một tình yêu mãnh liệt của một chàng họa sĩ dành cho một cô gái mà anh gọi là nàng. Dẫu bao sự biến đã xảy ra, mỗi người đã có gia đình riêng, giờ đây nàng đang đứng giữa phân giới mong manh giữa cái chết, sự sống bởi căn bệnh ung thư quái ác, thì trong mắt người họa sĩ ấy, người phụ nữ anh yêu mãi mãi vẹn nguyên là một trinh nữ thủa nào. Trong Con sóng Đồng Tháp Mười của Nguyễn Thị Phước, tình yêu tôn thờ của người đàn bà tên Thoan dành cho ông Hảo, một nghệ sĩ đờn ca cũng đã xóa hết dấu vết thời gian hằn in lên con người. Cái nhìn của tình yêu mang một phép lạ diệu kỳ. Nó có thể ngăn lại dòng chảy của thời gian, để giữ lại, làm vĩnh cửu hóa những hình ảnh của con người. Thời gian không trôi mất là cảm nhận đong đầy khát vọng tình yêu, hạnh phúc vĩnh cửu của con người.

Thời gian đồng hiện

Thời gian vốn có tính liên tục, một chiều, không thể đảo ngược: quá khứ, hiện tại, tương lai. Tuy nhiên trong thế giới nghệ thuật văn chương, quá khứ hay tương lai có thể cùng tồn hiện với thực tại, bằng nhiều hình thức khác nhau. Trên những trang văn nữ, thời gian quá khứ thường xuyên đồng hành cùng hiện tại, liên tục đan xen, làm đứt đoạn mạch thời gian hiện tại của câu chuyện, để soi sáng, giải thích hiện tại. Thời gian tương lai thi thoảng cũng hiện bóng trong hiện tại, qua những giấc mơ báo ứng hoặc qua những dự cảm, linh cảm nhạy bén của con người. “Thời gian, dòng tâm tư, quá khứ, hiện tại, tương lai xuất hiện cùng một lúc, không bị ngăn cách, liên tục như một dòng chảy, đó là hiện tượng mà người ta gọi là đồng hiện” (4). Sự đồng hiện thời gian cũng là một nét đặc sắc của thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn nữ.

Quá khứ dường như là sự ám ảnh thường xuyên trên mỗi trang viết của các nhà văn nữ. Nó vẫn hiện diện trong cuộc sống hiện tại, qua đồ vật, cảnh vật, để nhắc nhớ người ta về những chuyện đã qua. Trong Hoa muộn của Phan Thị Vàng Anh, những mối tình đã qua của cô gái tên Hạc đã in dấu vào những đồ vật trong nhà, trong vườn, trong cái trại gà lợp lá dừa mục nát của gia đình cô, khiến cô luôn phải đối diện với tình cảnh lẻ loi của mình. Đó là một vài kỷ niệm các chú nhỏ đã từng lân la tán tỉnh cô để lại, những cái ghế con đóng vuông vức đầy đinh, những cây cảnh bị bẻ quặt, uốn cong, cố vặn theo hình con lân, con phụng, là hệ thống máng ăn cho gà, dùng không biết đến khi nào mới hỏng. Quá khứ không còn là điều gì vô hình nữa mà nó hiện ra cụ thể, có hình có khối để khẳng định sự tồn tại của mình trong hiện tại. Có lúc, quá khứ nhập thẳng vào cảm giác của con người, tạo ra hiện tượng ảo giác. Ông lão trong Bà mụ của búp bê của Quế Hương đã lấy sức mạnh từ cảm giác của một cậu bé, hình ảnh của ông hồi nhỏ để trèo qua tường rào, đi mua về cho đứa cháu tật nguyền con búp bê lành lặn như nó mong ước. Quá khứ đã hòa trộn nhuần nhụy, khó tách bạch với hiện tại, tạo nên phức hợp cảm giác, nâng đỡ con người vượt qua những khó khăn.

ơng lai cũng tìm cho mình những con đường riêng để có mặt trong thời khắc hiện tại, thể hiện sự linh cảm nhạy bén của các nhà văn nữ. Đó là những dự cảm của con người, được tạo nên từ những kinh nghiệm, sự trải nghiệm. Đó là những giấc mơ báo ứng: giấc mơ về cái chết của mẹ, người đàn bà ngoài luồng của cha trong Hoàng hôn của cha của Vũ Minh Nguyệt, giấc mơ ngoại tình của người vợ trong Sau chớp là giông bão của Y Ban, giấc mơ về má hóa thành con bướm nhỏ của Nương trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư… Tương lai hiện hữu trong hiện tại đã tạo ra lối kể đón trước cho câu chuyện, mở ra thế giới tâm linh thẳm sâu của con người.

Sự đồng hiện thời gian đã phản ánh cuộc sống nội tâm phong phú, phức tạp của con người. Thế giới không bình lặng diễn ra, nó cần sự soi rọi, phản chiếu của nhiều chiều thời gian để cùng lý giải, cảm nghiệm sự đa sắc của hiện thực cuộc sống con người.

Đêm, sự đối diện với chính mình

Trong bước đi tuần tự của thời gian một ngày, đêm có một ý nghĩa đặc biệt trên những trang viết của các nhà văn nữ. Đó là thời điểm con người có thể đối diện với chính cõi lòng của mình, được sống với thế giới riêng tư mà ban ngày nó bị chìm khuất đi bởi bộn bề sự sống. Đó là quãng thời gian mà con người bộc lộ chân thực nhất thế giới nội tâm của mình, không giấu giếm, che đậy.

Trong Sau những mùa trăng của Đỗ Bích Thúy, chỉ khi đêm xuống nhân vật tôi mới cảm nhận hết được bao giằng xé, khát khao diễn ra trong tâm hồn người chị dâu góa bụa trước tiếng khèn gọi bạn tình tha thiết ngoài ngõ. Chỉ khi đêm xuống người phụ nữ ấy mới được sống con người thật của mình, bởi chỉ cần trời sáng, dường như đó lại là một con người hoàn toàn khác. Thời gian đêm đã trải dài biết bao trang truyện của các cây bút nữ, đồng hành cùng những nỗi niềm riêng tư của con người, nhất là người phụ nữ, nỗi niềm của người vợ nhớ thương người chồng đã khuất trong Trăng góa của Lê Minh Hà, nỗi niềm của cô gái bị ruồng bỏ bởi cô là bệnh nhân Cô Vắc trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban, nỗi niềm của người mẹ đầy ân hận đớn đau khi đã vô tình đẩy đứa con gái đi theo vết xe đổ của mình trong Hậu thiên đường của Nguyễn Thị Thu Huệ… Đó cũng là thời gian thích hợp cho tình yêu, hạnh phúc đời tư thể hiện. Khi cả thiên nhiên, con người chìm vào giấc ngủ, đi vào trạng thái tĩnh lặng thì đó lại là thời khắc bừng lên rõ ràng, chân thực, sinh động nhất thế giới nội tâm của con người; đêm đã trở thành thời gian nghệ thuật gắn với những trĩu nặng tâm tư của con người trên những trang viết nữ.

Nếu như không gian nghệ thuật dựng lên mô hình thế giới dưới cái nhìn của các nhà văn nữ thì thời gian nghệ thuật gắn chặt với những cảm nhận của con người mang tính suy tư, chiêm nghiệm về sự vận động, đổi thay của thế giới. Là những hình tượng văn học sinh động, gợi cảm, không gian, thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại đã trở thành những phương thức nghệ thuật đặc sắc để các nhà văn khám phá cuộc sống phức tạp, chiều sâu tâm lý của con người. Một thế giới mang tính quan niệm trong sự tồn tại của các cặp tương quan không gian, trong sự vận động của các chiều thời gian đã cho thấy một chiều sâu cảm thụ gắn chặt với thiên tính nữ của người sáng tạo.

______________

1, 2. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, 1998, tr.63, 89.

3. Lê Minh Khuê, Cơn mưa cuối mùa, daibieunhandan.vn.

4. Đặng Anh Đào, Truyện cực ngắn, Tạp chí Văn học, Nxb Văn học, 1996, tr.77.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 394, tháng 4-2017

Tác giả : PHẠM THỊ THANH PHƯỢNG

;