Cảnh trong vở “Mặt trời đêm thế kỷ” của Nhà hát Cải lương Việt Nam - Ảnh tư liệu minh họa: Liên Hương
1. Đặt vấn đề
Quá trình vận động của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025) là giai đoạn với những biến đổi theo hướng hiện đại hóa của văn học, nghệ thuật, luôn là sản phẩm của những vận động có tính nội sinh của đời sống văn hóa xã hội và quá trình giao lưu văn hóa với thế giới. Hiện nay, cần ghi nhận một thực tế vốn dĩ trong văn học, nghệ thuật, những sáng kiến của văn nghệ sĩ bao giờ cũng có tính vượt trước thời đại, đi trước sự chuyển biến của công chúng. Đặc điểm này còn thể hiện ở vai trò của những cơ chế mang tính trung gian từ những người làm công tác phê bình đến các cơ quan có chức năng phổ biến như báo chí, nhà xuất bản, nhà hát, rạp chiếu phim, phòng tranh, triển lãm... Chính các cơ chế này, trong tính lý tưởng đó, nó sẽ đảm nhiệm chức năng làm cho những sáng tạo nghệ thuật mang tính chất tiền phong của văn nghệ sĩ đến gần hơn với công chúng, có được sự thấu hiểu và đồng cảm từ phía người thưởng thức. Sâu xa hơn, đó là vai trò của hệ thống quản lý và giáo dục, phát hiện tài năng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ - một hệ thống có chức năng định hướng, chuẩn bị kiến thức và tâm thức cho lớp văn nghệ sĩ và công chúng tương lai.
2. Vài nhận định thực trạng hoạt động sáng tác văn học, nghệ thuật
Nhìn vào sự phát triển của văn học, nghệ thuật đương đại ở Việt Nam hiện nay có thể thấy, chủ trương mở cửa và xã hội hóa, thị trường văn học, nghệ thuật hình thành và phát triển một cách mạnh mẽ, sự hiện diện đồng thời của nhiều tổ chức hay quỹ văn hóa của nước ngoài tại Việt Nam, sự tham gia của một số đơn vị kinh tế vào hoạt động văn hóa dưới hình thức các công ty truyền thông, các công ty tổ chức biểu diễn...
Các phương tiện, phương thức sản xuất, trình diễn, sử dụng, truyền bá sản phẩm văn học, nghệ thuật phát triển khá mạnh đã đưa được nhiều tác phẩm đến với công chúng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của người dân. Thị trường hàng hóa và dịch vụ các sản phẩm văn học, nghệ thuật ở trong nước đã hình thành; đưa các sản phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng ra nước ngoài, góp phần khẳng định vị trí của nước ta là địa chỉ giao lưu văn hóa quốc tế trong thời kỳ mới.
Đội ngũ văn nghệ sĩ được hình thành, phát triển và rèn luyện trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, là lực lượng tin cậy, trung thành của đất nước, của Đảng và nhân dân, có lòng yêu nước nồng nàn, tự hào dân tộc, tâm huyết với nghề nghiệp, xứng đáng với danh hiệu cao quý nghệ sĩ - chiến sĩ, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trực tiếp tạo nên nền văn học, nghệ thuật cách mạng của dân tộc trong thời đại ngày nay. Tư duy lý luận và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn học, nghệ thuật tiếp tục đổi mới, bổ sung, phát triển, góp phần cổ vũ, khích lệ, tạo niềm tin cho văn nghệ sĩ. Các cấp ủy đảng có nhiều cố gắng theo sát thực tiễn văn học nghệ thuật, nâng cao năng lực lãnh đạo và tìm tòi các phương thức chỉ đạo phù hợp, thiết thực.
Các hội văn học, nghệ thuật từ Trung ương đến địa phương tiếp tục giữ vững định hướng chính trị, tập hợp, đoàn kết đội ngũ đẩy mạnh hoạt động sáng tạo.
Từ đó cho thấy, đời sống văn học, nghệ thuật ở Việt Nam đang diễn ra một quá trình kép, trong khi những hình thái văn học, nghệ thuật mang tính truyền thống vẫn tiếp tục có nhu cầu đổi mới thi pháp và mỹ học, thì đồng thời, một số hình thái văn học, nghệ thuật mới bắt đầu được du nhập, từ nhu cầu tự thân của giới văn nghệ sĩ cũng như từ sự giao tiếp với nước ngoài, nhất là từ sự đỡ đầu của các tác nhân quốc tế (các quỹ, tổ chức...). Vậy là bên cạnh văn học viết, sân khấu truyền thống, hội họa, thanh nhạc, múa… công chúng Việt Nam bắt đầu biết đến sắp đặt, trình diễn, video art, sân khấu thể nghiệm, word music, múa đương đại..., thậm chí cả các hình thái có tính chất lai ghép như trình diễn thơ, diễn xướng tương tác. Ðiều đó, tự nó đã xuất hiện khoảng cách nhất định giữa những hình thái nghệ thuật này và công chúng, cũng như với đời sống văn học, nghệ thuật đương đại.
Cho đến nay ở Việt Nam, vẫn còn một số người sáng tác văn học, nghệ thuật chủ yếu tiếp cận nghệ thuật thế giới hiện đại chỉ qua những phương tiện thông tin đại chúng, qua những câu chuyện, giai thoại. Mang một tâm lý ngộ nhận về các giá trị của văn học, nghệ thuật, họ bắt chước, mô phỏng rất nhanh những gì biết được. Mỗi người thủ đắc một số chiêu thức kỹ thuật, tạo ra một vài mô típ thuần túy hình thức như một đặc trưng của phong cách cá nhân trên cơ sở một số đề tài phổ biến, rồi cứ thế nhân bản. Sáng tác chỉ còn là một thói quen, không thể biến hóa, sáng tạo hơn được nữa.
Bên cạnh khoảng cách nói trên, cũng cần đề cập đến việc tồn tại của một thị trường văn học, nghệ thuật (dưới hình thức này hay hình thức khác, dưới dạng bán tác phẩm trực tiếp hoặc dưới dạng những dự án, giải thưởng nhận tài trợ của nước ngoài) dẫn đến việc nhu cầu của thị trường quyết định “giá trị sử dụng” của sản phẩm văn hóa, đồng thời cũng vô tình hoặc hữu ý, khuyến khích tình trạng cắt rời những sản phẩm văn học, nghệ thuật khỏi môi trường xã hội bản địa. Không phải là vô lý khi mà cách đây chưa lâu, giới phê bình mỹ thuật đã phải gióng chuông báo động về sự lạm phát của các mô típ nón lá, trâu bò, nông thôn trong mỹ thuật Việt Nam do tác động của việc bán tranh ra nước ngoài. Không thể phủ nhận ý nghĩa tích cực của việc các quỹ nước ngoài, các dự án tài trợ nghệ thuật của nước ngoài đã khuyến khích các khuynh hướng mới trong đời sống văn học, nghệ thuật, nhưng cần tỉnh táo để đặt vấn đề ngược lại, là liệu trong khoảng mấy chục năm qua, bao nhiêu dự án văn học, nghệ thuật được nước ngoài tài trợ đi ra khỏi được những không gian văn hóa khép kín để đến được với công chúng, chưa nói đến việc tạo ra được tiếng vang và dấu ấn trong công chúng. Đó cũng là vấn đề đáng phải suy nghĩ! Tất nhiên, trong hoàn cảnh thị trường văn học, nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, khó có thể lấy công chúng làm tiêu chí tuyệt đối, bởi lẽ không ít tác phẩm “thắng lớn” về doanh thu nhưng lại là những “thảm họa” về giá trị nghệ thuật. Dẫu vậy, sự quay lưng lại của công chúng vẫn là một hiện tượng đáng lưu tâm.
Ngoài ra, cũng không thể bỏ qua sự bùng nổ của thị trường giải trí. Với sự phát triển của các phương tiện truyền thông như Internet, truyền hình kỹ thuật số, nhu cầu giải trí của công chúng đã được “kích cầu” một cách tối đa. Phương cách thuận tiện nhất là nhập khẩu chương trình nước ngoài: Phim truyện nhựa, phim truyền hình, các kênh ca nhạc của một số quốc gia mạnh về nghệ thuật giải trí. Sau giai đoạn bùng nổ, khi Nhà nước có chính sách thắt chặt việc nhập khẩu văn hóa, bắt đầu xuất hiện làn sóng “đội lốt” nhập khẩu bằng cách Việt hóa các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật của nước ngoài. Kịch bản phim được mua bản quyền và “chế biến” lại. Âm nhạc được “pha trộn” để mang màu sắc, hơi hướng của các khuynh hướng âm nhạc thời thượng nước ngoài. Gần đây, xuất hiện làn sóng các game show và các chương trình truyền hình thực tế. Chỉ cần lướt qua một số website và kênh giải trí, đã có thể nhận thấy rõ ảnh hưởng của nước ngoài lên các “nghệ sĩ” Việt Nam, từ cách ăn mặc, phong cách biểu diễn, thậm chí cho đến cả “nghệ danh”.
Tất cả những khuynh hướng và hiện tượng kể trên cho thấy trong đời sống văn học, nghệ thuật ở Việt Nam đang tồn tại những khoảng cách giữa sáng tạo nghệ thuật của nghệ sĩ với nhu cầu và khả năng thưởng ngoạn của công chúng; giữa mục tiêu nâng cao thị hiếu thẩm mỹ, thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật thật sự của công chúng với chất lượng nghệ thuật của tác phẩm; giữa các chuẩn mực văn hóa đạo đức của người Việt Nam và tính tiền phong của tác phẩm văn học, nghệ thuật. Từ một phía khác, tình trạng thiếu vắng của đội ngũ lý luận phê bình nghệ thuật đích thực trên báo chí cùng với việc nhiều cơ quan báo chí, nhất là các báo điện tử biến trang văn hóa thành trang chuyên đăng tải các thông tin giải trí và bê bối của giới nghệ sĩ cũng cần được gióng lên hồi chuông báo động.
Trong sáng tác biểu diễn, truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật vẫn còn một số tác phẩm và hoạt động chưa thể hiện được tính chất tiên tiến và bản sắc dân tộc. Số lượng tác phẩm ngày càng nhiều, song còn ít tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Trong một số tác phẩm, lý tưởng xã hội - thẩm mỹ không rõ nét, ý nghĩa xã hội còn hạn hẹp. Một số văn nghệ sĩ còn hạn chế trong tiếp cận và nhận thức những vấn đề mới của cuộc sống, chưa cảm nhận đầy đủ ý nghĩa, chiều sâu và tính phức tạp của quá trình chuyển biến mang tính lịch sử trong thời kỳ mới của đất nước.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ còn bất cập, hạn chế: chương trình, nội dung lạc hậu; chưa bảo đảm chất lượng đào tạo toàn diện về chính trị, tư tưởng, chuyên môn, đạo đức, thể chất; chưa chú trọng đúng mức tính đặc thù, chuyên biệt và yêu cầu đào tạo tài năng (như đội ngũ giáo viên đầu đàn, có trình độ chuyên môn cao bị thiếu hụt ngày càng nhiều; điều kiện và phương tiện phục vụ dạy và học vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu…). Đội ngũ lý luận phê bình vừa thiếu, vừa bị hụt hẫng thế hệ kế cận, phân bố không đều ở các ngành văn học, nghệ thuật. Từ đó, ảnh hưởng đến việc chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong thời gian qua còn nhiều bất cập, có lúc không rõ tiêu chí, thiếu định hướng. Các thiết chế văn hóa chưa được đầu tư xứng tầm và kịp thời, nhất là ở các thành phố lớn như: Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ… đều chưa có không gian hoạt động văn hóa, nghệ thuật cấp quốc gia, quốc tế. Hệ thống tượng đài, tranh và trung tâm sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật cộng đồng chưa được quy hoạch tương xứng với vị thế của đất nước hiện nay.
Nguyên nhân của những bất cập, yếu kém nêu trên có nhiều, đặc biệt là những nguyên nhân chủ quan như: đầu tư kinh phí, ngân sách cho lĩnh vực văn học, nghệ thuật chưa đúng tầm và đúng mức. Một số vấn đề cốt lõi và mới đặt ra trong lĩnh vực này chưa được lý giải thấu đáo, thiếu thống nhất. Công tác tổng kết thực tiễn chưa theo kịp sự phát triển, vì thế có lúc lúng túng, thiếu những quyết sách cơ bản, chủ động, thiếu tầm nhìn xa…
2. Một số định hướng phát hiện tài năng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ
Tài năng văn học, nghệ thuật là vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm của toàn xã hội. Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ. Văn nghệ sĩ, người chiến sĩ xây dựng và phát triển nền văn học nghệ thuật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị phụng sự đất nước và dân tộc.
Từ tư chất, năng khiếu thông qua các phẩm chất di truyền bẩm sinh, như đôi tai biết nghe nhạc, khả năng cảm nhận về màu sắc, biểu cảm về nhịp điệu, hình khối, ngôn ngữ cơ thể, ngôn từ… là rất quan trọng. Đây là những tiền đề về tâm sinh lý và có tính bẩm sinh của năng khiếu, nhưng để đạt đến tài năng là một quá trình khổ công rèn luyện của bản thân chủ thể sáng tạo văn học, nghệ thuật. Một mặt, lịch sử văn học, nghệ thuật chứng minh rằng, phải có tư chất và năng khiếu mới có thể xuất hiện tài năng. Mặt khác, tài năng văn học, nghệ thuật là một quá trình phát triển lâu dài và mang tính quy luật, là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó, phát hiện năng khiếu, đào tạo và bồi dưỡng là khâu trọng yếu nhất, đòi hỏi nhiều thời gian, nguồn lực và tâm huyết mới có được tài năng thực sự.
Không thể xem thường năng khiếu bẩm sinh ở mỗi người. Năng khiếu là tiền đề, là xuất phát điểm của một tài năng. Cho nên một người làm việc này thì tốt hơn làm việc kia và ngược lại. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận đúng đắn, đầy đủ vấn đề năng khiếu bẩm sinh ở hai mặt: năng khiếu bẩm sinh có thể phát triển thành một tài năng lớn; nhưng cũng thật thảm hại, năng khiếu có thể mãi mãi tồn tại ở dạng tiềm năng nếu không muốn nói là bị thui chột khi nó không được đánh thức, chăm sóc, bồi dưỡng. Tài năng nghệ thuật không nằm ngoài quy luật rất nghiệt ngã ấy.
Năng khiếu văn học, nghệ thuật phải được phát hiện và nuôi dưỡng từ lứa tuổi nhỏ thông qua các lớp năng khiếu, các trường phổ thông năng khiếu và các cuộc thi văn học, nghệ thuật dành cho thiếu nhi, như thi viết, vẽ, múa, hát, thể dục, thể thao, xiếc… Bên cạnh các trường phổ thông năng khiếu các môn khoa học tự nhiên, chúng ta cần tổ chức thêm các trường phổ thông năng khiếu văn học, nghệ thuật từ cấp I (Tiểu học), các em sẽ vừa được học môn năng khiếu mà mình yêu thích bên cạnh các môn khoa học, xã hội và tự nhiên xuyên suốt thời gian học phổ thông. Như vậy, khi tốt nghiệp trung học phổ thông năng khiếu văn học, nghệ thuật các em sẽ bước vào đại học chuyên ngành về một lĩnh vực văn học, nghệ thuật của mình để được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp.
Đào tạo văn học, nghệ thuật có tính chuyên sâu đặc thù, quy trình đào tạo công phu, lâu dài, có hệ thống và liên tục trong nhiều năm, quá trình học tập là sự kết hợp chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành mang tính truyền nghề, có sự sàng lọc khắt khe. Từ hàng chục năm nay, tiêu chí dự thi đại học của các cơ sở giáo dục đại học các ngành văn học, nghệ thuật như: âm nhạc, mỹ thuật, múa, sân khấu... trình độ đại học, ngoài những quy định chung, thí sinh dự thi phải có trình độ trung cấp hoặc năng khiếu tương đương phù hợp với ngành/chuyên môn đào tạo. Vì vậy, nhiều năm qua, một số cơ sở giáo dục đại học lĩnh vực văn học, nghệ thuật đã đào tạo đồng thời các trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học. Mô hình đào tạo trung cấp kết hợp học các môn văn hóa phổ thông với chuyên môn nghệ thuật được các cơ sở giáo dục đại học thực hiện rất hiệu quả, nhằm tạo điều kiện thuận lợi, tốt nhất cho học sinh thực hiện đồng thời cả hai nhiệm vụ, như: một số trường có khoa văn hóa để học sinh học các môn văn hóa ngay tại trường.
Đào tạo ở trình độ trung cấp lĩnh vực nghệ thuật, ngoài cung cấp nhân lực hoạt động cho xã hội, đào tạo tài năng cho đất nước, đồng thời bậc đào tạo này còn tạo nguồn tuyển ở trình độ đại học cho chính các cơ sở giáo dục đại học, góp phần định hướng nghề nghiệp, nâng cao chất lượng đào tạo và nguồn nhân lực có năng lực biểu diễn, sáng tạo nghệ thuật chất lượng cao, hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật của cả nước. Như vậy, có thể khẳng định rằng, các cơ sở giáo dục đại học chuyên sâu lĩnh vực văn học, nghệ thuật là cái nôi đào tạo tài năng của đất nước, nơi tập trung nhiều nhất các chuyên gia, nhà khoa học, giảng viên, nghệ sĩ tài năng có chuyên môn cao, uy tín nghề nghiệp chủ yếu được đào tạo ở nước ngoài hoặc tham gia biểu diễn, chương trình nghệ thuật hoặc đoạt các giải cao tại các kỳ nghệ thuật trong nước và quốc tế. Mô hình đào tạo này rất hiệu quả, đã và đang khẳng định được vị thế, chỗ đứng của nghệ thuật, trong đó có lĩnh vực âm nhạc Việt Nam đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, các cơ sở giáo dục đại học lĩnh vực văn học, nghệ thuật còn có trách nhiệm bảo tồn, phát triển các loại hình nghệ thuật truyền thống, dân tộc thông qua công tác đào tạo cũng đang đào tạo theo mô hình: đào tạo trung cấp, cao đẳng trong trường đại học, học viện. Do đó, việc giữ nguyên mô hình đào tạo và quy định các cơ sở giáo dục đại học tiếp tục được đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng như đã thực hiện hàng chục năm qua là rất cần thiết và cần được quy định trong Nghị định quy định về đào tạo chuyên sâu đặc thù lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Trong đào tạo lĩnh vực văn học, nghệ thuật cần có cơ chế đặt hàng đối với những ngành đặc thù khó tuyển, miễn, giảm học phí, bồi dưỡng nghề, hỗ trợ trang bị, hỗ trợ tốt nghiệp đối với người học, tạo điều kiện tốt nhất cho các em phát huy khả năng sáng tạo cao, làm nền tảng cơ bản để trở thành tài năng trong văn học, nghệ thuật thông qua các trường trọng điểm quốc gia được Nhà nước đầu tư chuyên biệt và đúng mức.
Ngoài ra, tính độc đáo của tài năng văn học, nghệ thuật không chỉ thể hiện trong tác phẩm, mà còn tồn tại như một đặc thù của hoạt động văn học, nghệ thuật, như quá trình sáng tạo ra tác phẩm. Các văn nghệ sĩ thể hiện “cái tôi” không chỉ trong kết quả sáng tác, trong các tác phẩm của mình, mà còn trong phương pháp thể hiện, phong cách sáng tác - là hai yếu tố quyết định tính độc bản (không có cái thứ hai, không lặp lại) của bất kỳ hình tượng văn học, nghệ thuật nào do họ tạo ra. Chính vì thế, không chỉ phát hiện tài năng, đào tạo mà còn phải thường xuyên bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật và chủ trường, đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ văn nghệ sĩ.
3. Kết luận
Những yếu tố nêu trên là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để hiện thực hóa cá tính độc đáo của văn nghệ sĩ. Tài năng văn học, nghệ thuật chỉ có thể được thực hiện trong những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội không chỉ quy định chủ đề tư tưởng, nội dung nghệ thuật, cách tư duy, cách thể hiện và trách nhiệm của văn nghệ sĩ, mà cũng chính là nguồn cảm hứng vô tận, phong phú và sinh động của những tác phẩm văn học, nghệ thuật.
Trong lịch sử xã hội loài người, ở một số thời đại nhất định đã tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất cho sự triển khai và thể hiện tài năng văn học, nghệ thuật như: thời Cổ đại, Cổ điển, thời Phục hưng…, một thời kỳ vĩ đại đòi hỏi phải có những nhà tư tưởng lớn, những hình tượng văn học, nghệ thuật đỉnh cao, và tất yếu sản sinh ra những tài năng lớn.
Việc thừa nhận ý nghĩa quyết định của các điều kiện kinh tế, xã hội và chính trị cũng như của bầu không khí cởi mở mang yếu tố tinh thần trong việc thể hiện tài năng, hoàn toàn không có nghĩa là tuyệt đối hóa chúng, bởi các văn nghệ sĩ không chỉ là sản phẩm của thời đại mà còn là người tạo ra thời đại. Đặc tính cơ bản của ý thức là không chỉ phản ảnh thế giới mà còn tạo ra thế giới (tạo ra không phải ở nghĩa trái chiều với tiến trình khách quan của sự phát triển xã hội mà ở nghĩa tập trung nội lực của toàn xã hội để phát hiện các xu hướng tiến bộ của đời sống xã hội). Trong sự thể hiện tài năng văn học, nghệ thuật, các yếu tố chủ quan cũng đóng vai trò quan trọng, không thể thiếu, như: khả năng làm việc, lao động “hết mình” và ý chí mãnh liệt; văn nghệ sĩ động viên mọi người bằng sức mạnh tình cảm và trí tuệ của mình, khát vọng đi sâu vào bản chất của thời đại mình đang sống để phát hiện và sáng tác.
Đào tạo các ngành lĩnh vực văn học, nghệ thuật là đào tạo chuyên sâu và đặc thù, đồng bộ, đồng thời nhiều trình độ; người học phải có năng khiếu, nguồn tuyển sinh đại học từ các trình độ thấp hơn đã có thời gian đào tạo nhiều năm; đào tạo kết hợp với nghiên cứu khoa học; người học được phát hiện, bồi dưỡng và đào tạo từ sơ, trung cấp đến khi tốt nghiệp đại học hoặc sau đại học; cơ sở vật chất, trang thiết bị thiết yếu phục vụ đào tạo có yêu cầu đặc thù riêng; người dạy đồng thời vừa giảng dạy vừa tham gia biểu diễn, sáng tạo nghệ thuật… Do đó, nhất thiết cần phải có cơ chế đặc thù và chuyên biệt cho các trường trọng điểm đào tạo lĩnh vực văn học, nghệ thuật .
Tham luận tại Hội thảo khoa học “Nhìn lại sự vận động, phát triển của văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975-30/4/2025)” do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức tháng 6-2025 .
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2000.
2. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Nxb Hà Nội, 2003.
3. Vũ Thị Kim Dung, Giao lưu văn hóa và các chuẩn mực đánh giá thẩm mỹ”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 1, Hà Nội, 2000.
4. Hội Nhà văn Việt Nam, Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2014.
5. Nguyễn Văn Huyên, Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam trong thế kỷ mới, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 2001.
6. Nguyễn Thế Kỷ, Xây dựng hệ giá trị văn học, nghệ thuật Việt Nam dân tộc và hiện đại”, Tạp chí Lý luận Phê bình Văn học - Nghệ thuật, Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương, Chuyên san tháng 1-2021.
7. Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Quan điểm “Văn hóa Nghệ thuật cũng là một mặt trận, của Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay, Nxb, Văn nghệ, TP.HCM, 2018.
8. Xem thêm: Nguyễn Văn Minh, Giáo trình phương pháp luận sáng tác nghệ thuật (Trình độ sau Đại học), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022.
9. Nguyễn Ngọc Thiện, Đường lối văn hóa nghệ thuật của Đảng - Lý luận, thực tiễn nghệ thuật (sách chuyên khảo), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2020.
PGS, TS. NGUYỄN VĂN MINH
Hiệu trưởng Trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
.png)



.jpg)

.jpg)
