Đổi mới chính sách văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay

1. Đổi mới chính sách văn hóa các dân tộc thiểu số là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh mới

Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc thiểu số (DTTS), nên trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa của cả nước, để có nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, việc xây dựng chính sách văn hóa các DTTS là một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, luôn gắn với yêu cầu thực tiễn, mang tính thời sự đặc biệt.

Bước sang thập kỷ thứ ba của TK XXI, trên phạm vi cả nước, quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế ngày càng rộng mở, yêu cầu vận dụng những thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, thời kỳ chuyển đổi số, xây dựng xã hội số, nền kinh tế số, văn hóa số, công dân số… đã và đang đặt ra những vấn đề rất mới, thậm chí chưa có tiền lệ đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam, trong đó có sự phát triển văn hóa, con người các DTTS tại vùng núi cao, vùng sâu và vùng xa. Chính sách văn hóa các DTTS chính là hệ thống quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng được thực thi thông qua bộ máy Nhà nước nhằm quản lý, xây dựng và phát triển văn hóa các DTTS, nhằm thiết lập sự bình đẳng và hòa nhập phát triển, củng cố, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết thống nhất của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, phát triển văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng.

Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta từng nêu rõ: “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các DTTS. Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng bào DTTS học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình” (1).

Chính sách văn hóa các DTTS được hiểu là một bộ phận cấu thành trong hệ thống chính sách dân tộc - một trong những mục tiêu, nội dung phát triển kinh tế, xã hội ở vùng đồng bào các DTTS. Trên thực tế, những đặc điểm lịch sử xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán, điều kiện thực tiễn về địa lý tự nhiên và kinh tế của từng vùng, từng DTTS là những căn cứ, cơ sở quan trọng để xây dựng chính sách văn hóa các DTTS để bảo đảm cho tính phù hợp và hiệu quả của chính sách khi được xây dựng, ban hành và thực hiện.

2. Những yêu cầu đổi mới chính sách văn hóa các DTTS trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Cách mạng công nghiệp 4.0 và thời kỳ chuyển đổi số

Thứ nhất, chính sách văn hóa các DTTS cần phải tiếp tục đổi mới, thể hiện sự ưu tiên phát triển văn hóa các DTTS theo quan điểm, đường lối của Đảng hiện nay.

Chính sách văn hóa các DTTS ở Việt Nam mang tính chính trị sâu sắc, là sự thể chế hóa chủ trương, đường lối Nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Nguyên tắc bao trùm lớn nhất là phải thể hiện một cách đầy đủ các quyền bình đẳng về chính trị, quyền bình đẳng về mặt kinh tế, quyền bình đẳng về văn hóa, xã hội và đoàn kết giữa các dân tộc, tương trợ giúp đỡ nhau để cùng phát triển như: Điều 5 trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 từng nêu rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc” (2).

Chính sách văn hóa DTTS là một bộ phận hữu cơ của hệ thống chính sách vùng đồng bào các DTTS hướng tới bảo đảm sự ổn định, phát triển chung của cả nước về văn hóa, kinh tế và chính trị. Bên cạnh đó, chính sách văn hóa DTTS còn thể hiện mục tiêu công bằng xã hội là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa; thể hiện tình cảm, trách nhiệm của cả nước đối với những đóng góp của đồng bào các DTTS trong sự nghiệp cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hơn nữa, việc đảm bảo tính nhân văn trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc là yêu cầu hết sức quan trọng, cần được thể hiện trong chính sách văn hóa các DTTS hiện nay.

Trên thực tế, quá trình phát triển không đồng đều về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc trên phạm vi cả nước đang có sự chênh lệch nhất định và ít nhiều gây nên mặc cảm, tự ti, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của cộng đồng các DTTS rất ít người. Điều này có thể gây ra những khó khăn trong việc củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, nhất là khi các quan hệ dân tộc có thể trở nên phức tạp và bị các thế lực thù địch lợi dụng, chia rẽ, chống phá cách mạng nước ta. Chính vì vậy, chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, từng bước cải thiện và nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân, thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, các dân tộc, đặc biệt là các DTTS là một mục tiêu lớn được xác định trong quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Điều 5 trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã tiếp tục khẳng định: “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (3). Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta nêu rõ: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc”(4).

Với chủ trương xây dựng nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó ưu tiên phát triển văn hóa các DTTS, Đảng và Nhà nước luôn luôn xác định cùng với chăm lo phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, việc bảo tồn, phát huy văn hóa các DTTS vừa là nhiệm vụ cấp thiết, vừa có ý nghĩa chiến lược phải thực hiện kiên trì, lâu dài.

Gần đây, trong bối cảnh hội nhập quốc tế rộng mở, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vận dụng thành quả của Cách mạng công nghiệp 4.0, thực hiện chuyển đổi số mau chóng, Chính phủ đã phê duyệt các chính sách, đề án nhằm thực hiện hiệu quả việc bảo tồn, phát huy và phát triển giá trị văn hóa DTTS, đặc biệt là văn hóa của các DTTS rất ít người trong chiến lược tổng thể xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam tầm nhìn đến năm 2030 để phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Ngày 15-9-2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1409/QĐ-TTg về việc Ban hành kế hoạch triển khai Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19-6-2020 của Quốc hội về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030 trong đó có lĩnh vực văn hóa được nhấn mạnh tập trung về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các DTTS gắn với phát triển du lịch, đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển nhóm DTTS còn nhiều khó khăn, nâng cao chất lượng phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới. Qua đó tuyên truyền, vận động để các DTTS trong cộng đồng dân tộc Việt Nam gần gũi, tương trợ, giúp đỡ cùng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo điều kiện để mọi người dân tham gia và phát huy vai trò làm chủ trong công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của người dân vùng DTTS ở vùng núi cao, vùng sâu và vùng xa. Vừa qua, hệ thống chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội truyền thống, giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các DTTS đã có tác dụng tuyên truyền, vận động đồng bào DTTS từng bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, vươn tới các giá trị văn hóa tiên tiến, hiện đại. Nhiều lễ hội truyền thống tốt đẹp của các DTTS được khôi phục, góp phần giữ gìn thuần phong mỹ tục, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Trên thực tế, Dự án bảo tồn, phát huy giá trị làng truyền thống các DTTS đã được triển khai tại vùng đồng bào DTTS thông qua việc mở các lớp truyền dạy văn hóa truyền thống phi vật thể của DTTS có số dân rất ít người như: Bố Y, Pu Péo, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Mảng, Cống, Lô Lô, Chứt, Si La... tại các tỉnh Hà Giang, Lai Châu, Nghệ An, Kon Tum, Điện Biên, Lào Cai, Thái Nguyên, Quảng Bình. Tại các lớp học này, các nghệ nhân DTTS đã trực tiếp tham gia truyền dạy cho thế hệ trẻ, nâng cao ý thức tự giác giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Tiếng nói, chữ viết của các DTTS đã được bảo tồn, phát huy với nhiều hình thức như biên soạn, xuất bản sách theo tiếng dân tộc; lập hồ sơ khoa học về ngôn ngữ như các chương trình: “Chữ Nôm của người Dao”, “Chữ Nôm của người Tày”, “Chữ viết cổ của người Thái”, “Nói lý, hát lý của người Cơ Tu” đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

 Những kết quả nêu trên đã góp phần giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của các DTTS, từ đó khẳng định bản sắc văn hóa của mỗi DTTS, giúp cho đồng bào DTTS đoàn kết, tin tưởng vào đường lối đổi mới, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Thứ hai, chính sách văn hóa các DTTS phải đáp ứng yêu cầu phát triển các giá trị văn hóa tiên tiến, hiện đại và thể hiện bản sắc DTTS, đồng thời tích cực góp phần phát triển kinh tế, xã hội tại vùng đồng bào DTTS cư trú.

Trong không gian sinh tồn đặc thù ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, các DTTS phải vượt qua những thách thức của điều kiện khí hậu địa lý tự nhiên và các điều kiện xã hội đa dạng để có thể sinh tồn và phát triển, tăng cường được khả năng thích nghi, biến đổi, đổi mới, hội nhập thành công, nhưng không đổi màu, vẫn giữ được bản sắc riêng của văn hóa các DTTS.

Từ xa xưa, văn hóa các DTTS được lắng đọng trong tri thức dân gian bản địa về sản xuất, đời sống, ứng phó với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Đây là những kinh nghiệm được đúc rút qua nhiều thế hệ ở thực tiễn đời sống, dần dần trở thành phổ biến. Trong đó, trước hết phải kể đến các loại hình dân ca, dân vũ, sử thi và âm nhạc dân gian. Văn hóa các DTTS còn được thể hiện trong luật tục, phong tục, tập quán đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần, chi phối hành vi của mỗi con người, từ đó, hình thành tâm lý xã hội các DTTS và chuyển hóa cao hơn là thành ý thức hệ, thượng tầng kiến trúc của mỗi DTTS.

Hầu hết các vùng DTTS ở nước ta đều có nhiều yếu tố biệt lập và có tính liên kết nội tại, tạo nên sự khác biệt với các dân tộc khác. Việt Nam hiện nay ước tính có 54 dân tộc anh em, vừa có nét chung lại vừa có tính đa dạng, phong phú. Chính vì vậy, chính sách văn hóa các DTTS cần phải có nội dung phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội, phù hợp với đời sống tinh thần, tâm lý, cảm xúc của đồng bào các DTTS, từ đó định hướng, tác động đến sự chuyển hóa từng bước những yếu tố văn hóa DTTS trong những bối cảnh cụ thể hiện nay.

Thứ ba, chính sách văn hóa các DTTS phải đáp ứng nhu cầu mới về giao lưu, tiếp biến văn hóa trong sự phát triển hiện nay.

Quá trình hội nhập quốc tế rộng mở đã tạo ra sự thay đổi hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa các DTTS. Trước tiên, phải kể đến các dòng văn hóa vật chất hiện đại lan tỏa theo quá trình toàn cầu hóa đang làm thay đổi quan niệm, ý thức của người dân, từ tập quán tiêu dùng đến lối sống, từ suy nghĩ đến hành động, từ phạm vi cá nhân đến cộng đồng xã hội các DTTS. Sự đan xen của giá trị, bản sắc văn hóa mới với sự mai một vốn di sản văn hóa có thể diễn ra từng ngày trong nếp nghĩ, trong hành vi ứng xử của con người. Hiện nay, ngày càng có nhiều người DTTS ăn, mặc, sống theo lối sống của dân tộc đa số, thậm chí có nơi lớp trẻ đang có xu thế theo trào lưu văn hóa Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và một số nước châu Âu. Trong dòng chảy văn hóa vật chất đó, có yếu tố văn minh phù hợp với đời sống hiện đại thì dễ được chấp nhận. Tuy nhiên, cũng cần phải chú ý đến sự biến đổi văn hóa đang diễn ra phức tạp. Vừa qua, tại một làng Cơ Tu, tỉnh Quảng Nam, nhiều đứa trẻ sinh ra mang họ của người Cơ Tu nhưng được đặt tên theo tên của một số diễn viên Hàn Quốc là một ví dụ tiêu biểu về vấn đề này. Nếu ý thức dân tộc không được củng cố thì văn hóa vật chất sẽ dần dần làm thay đổi hoặc biến dạng văn hóa tinh thần, dễ mất đi văn hóa gốc căn bản của các DTTS.

Hiện nay, quá trình chuyển dịch dân cư, đan xen ngày càng trở nên phổ biến, ngày càng hình thành nhiều các cộng đồng dân cư hỗn hợp đa dân tộc nảy sinh nhiều thứ bậc và cấp độ quan hệ giữa các dân tộc. Thực tế này dẫn đến quá trình hòa trộn, giao lưu, tiếp biến văn hóa. Trên thực tế, một cộng đồng có dân số đông hơn và kinh tế phát triển hơn sẽ chiếm thế ưu trội ảnh hưởng đến văn hóa các cộng đồng nhỏ. Sự hòa trộn đó tạo nên một bức tranh đa sắc màu, phức tạp. Vì vậy, chính sách văn hóa các DTTS phải đảm bảo được tính thống nhất mà đa dạng, có những quy định tốt đẹp về quan hệ giữa các dân tộc dựa trên nguyên tắc bình đẳng, thân thiện.

Thứ tư, xây dựng chính sách văn hóa các DTTS phải phù hợp đặc điểm riêng của các DTTS trong các tiểu vùng văn hóa đặc thù.

 Việt Nam có 53 DTTS ít người với trên 12,5 triệu người, chiếm khoảng 14% dân số, phân bố trên địa bàn 58/64 tỉnh, thành cả nước. Các DTTS có số dân không đồng đều, quần cư xen kẽ và sự phát triển không đồng đều về kinh tế, xã hội, cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật nghèo nàn, thấp kém hơn các vùng khác, rất khó khăn khi tiếp cận các nguồn lực phát triển của quốc gia. Tại đây, đồng bào các DTTS chủ yếu là kinh tế nông nghiệp, tự cung, tự cấp khép kín với sức sản xuất thấp, sản xuất hàng hóa chưa phát triển. Một số nhóm DTTS rất ít người còn sử dụng loại hình kinh tế xưa cũ như “săn bắt, hái lượm”, du canh, du cư, canh tác sơ khai, hủy hoại môi trường tự nhiên. Chính vì vậy, cần nghiên cứu sâu và cụ thể về điều kiện tự nhiên, về lịch sử xã hội, về đặc điểm văn hóa của các DTTS để đề xuất xây dựng chính sách phát triển văn hóa các dân tộc này một cách phù hợp.

3. Định hướng nâng cao hiệu quả xây dựng, ban hành và thực thi chính sách văn hóa các DTTS hiện nay

Trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, thời kỳ chuyển đổi số và hội nhập quốc tế ngày càng rộng mở, xu thế toàn cầu hóa và làn sóng xô bồ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0… đã mang lại sự nhảy vọt về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng cũng mang đến nhiều thách thức như: phân cực giàu nghèo ngày càng gia tăng; nguy cơ thay đổi chuẩn mực văn hóa xã hội; nguy cơ đảo lộn cấu trúc nhân lực trong toàn xã hội… Theo đó, sự va chạm, xung đột giữa văn hóa bản địa và văn hóa ngoại nhập ngày càng phức tạp. Bản sắc văn hóa của nhiều DTTS như từ tiếng nói, chữ viết, các vật dụng trong cuộc sống hằng ngày, đến kiến trúc nhà ở, các lễ nghi trong đời sống xã hội (hôn nhân, tang ma, thờ cúng...) đang có nguy cơ mai một và biến mất. Để giải quyết được những thách thức nêu trên, có lẽ cần thực hiện một số định hướng nâng cao hiệu quả xây dựng, ban hành và thực thi chính sách văn hóa các DTTS như sau:

Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, ban hành và thực thi hệ thống chính sách đảm bảo quyền văn hóa của đồng bào DTTS, trong đó có cơ chế, chính sách cho các nghệ nhân, những người tổ chức thực hành, bảo tồn và phát huy, phát triển giá trị văn hóa truyền thống các DTTS trên cả nước.

Thứ hai, tăng cường hoạt động chỉ đạo và tổ chức thực hiện của các bộ, ban, ngành, địa phương, các cơ quan chức năng, các đoàn thể, nhân dân, các tổ chức, cá nhân đối với công tác bảo vệ và phát huy, phát triển văn hóa truyền thống các DTTS thời kỳ chuyển đổi số, hội nhập quốc tế.

Thứ ba, đẩy mạnh các hoạt động truyền thông đại chúng (phát thanh, truyền hình, báo điện tử, internet, mạng xã hội), tăng cường các hoạt động văn hóa, nghệ thuật truyền thống của các DTTS và văn hóa, nghệ thuật hiện đại phục vụ vùng miền núi cao, vùng sâu, vùng xa với mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa, con người các DTTS vừa truyền thống, vừa hiện đại.

Thứ tư, nghiên cứu cân đối, bố trí ngân sách hợp lý để triển khai thực hiện công tác bảo tồn di sản văn hóa truyền thống của các DTTS, triển khai xây dựng phát triển những giá trị văn hóa mới của các DTTS hiện nay, giúp cho đồng bào các DTTS yên tâm sinh sống, học tập, lao động, gìn giữ và phát huy tinh hoa giá trị, bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc mình.

_______________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1998, tr.65 - 66.

2. Xem Điều 5, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1992.

3. Xem Điều 5, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2013.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.170.

Ths NGUYỄN MINH THÔNG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 515, tháng 11-2022

;