Bảo vệ môi trường hướng đến phát triển bền vững ở Bắc Ninh: Thực trạng và giải pháp

Bảo vệ môi trường (BVMT) và phát triển bền vững (PTBV) là những vấn đề lớn, vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau, đồng thời là cơ sở cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội. Với chủ trương “phát triển kinh tế đi đôi với BVMT” và “BVMT hướng đến PTBV”, những năm qua, công tác BVMT ở Bắc Ninh được quan tâm, chú trọng, môi trường có nhiều chuyển biến tích cực; ô nhiễm môi trường, nhất là ở một số làng nghề bước đầu được khắc phục, nhưng chưa đáp ứng của yêu cầu PTBV.

Hội Nông dân Thuận Thành lắp đặt hệ thống thùng chứa rác thải tại khu dân cư - Nguồn: baobacninh.com.vn

Để PTBV, “Bảo vệ môi trường nhất thiết sẽ là một bộ phận cấu thành của quá trình phát triển và không thể xem xét tách rời quá trình đó” (1); PTBV tất yếu phải BVMT và BVMT phải hướng đến PTBV. Quán triệt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVMT; với nguyên tắc “Bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội” (2), những năm vừa qua, BVMT trên địa bàn của tỉnh đã đạt được kết quả khả quan, để hướng đến sự PTBV.

Thực trạng BVMT ở tỉnh Bắc Ninh

Từ chủ trương BVMT của Đảng, với nhận thức đúng đắn, quyết tâm cao, trách nhiệm lớn và hành động quyết liệt của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, BVMT ở Bắc Ninh những năm qua đã đạt được một số kết quả, có ý nghĩa quan trọng cả trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.

Một là, Đảng bộ tỉnh đã làm tốt công tác quán triệt, cụ thể hóa các Nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước về BVMT hướng đến PTBV, từ đó đề ra nhiều chủ trương phù hợp với thực tiễn của tỉnh. Chủ trương, chính sách BVMT của cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Bắc Ninh được thể hiện trong các Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, XIX, XX (nhiệm kỳ từ 2010-2025) và các văn bản về BVMT như: Chương trình số 48-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3-6-2013 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Kết luận 154-KL/TU ngày 5-1-2015 của Thường trực Tỉnh ủy, về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị về Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 8-11-2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với bảo vệ môi trường; Đề án Quy hoạch môi trường tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2006-2020; Chiến lược phát triển bền vững tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2006-2010, hướng tới 2020, ban hành ngày 31-10-2007.

Hai là, cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp trong tỉnh đã triển khai thực hiện có hiệu quả; phát huy tốt vai trò của các tổ chức, lực lượng trong BVMT hướng đến PTBV. Các tổ chức, các lực lượng đã phát huy cao ý thức, trách nhiệm và có nhiều đóng góp cho BVMT, qua đó góp phần giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường trong điều kiện đô thị hóa và sự phát triển công nghiệp diễn ra mạnh mẽ, bảo đảm cho BVMT luôn hướng đến PTBV.

Ba là, các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra về BVMT cơ bản đã hoàn thành, góp phần vào “tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững” (3).

Triển khai thực hiện bước đầu có hiệu quả chiến lược PTBV trên cơ sở kết hợp chặt chẽ và hài hòa 3 lĩnh vực: kinh tế, xã hội, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và BVMT trong quá trình phát triển. Công tác truyền thông, giáo dục về BVMT được đổi mới với hình thức phong phú, đa dạng. Nhiều địa phương thực hiện có nền nếp các quy ước, hương ước, cam kết và các mô hình tự quản trong cộng đồng dân cư về BVMT. Thực hiện Đề án tổng thể BVMT với chủ đề Bắc Ninh hành động vì môi trường sạch đã tạo chuyển biến tích cực, thúc đẩy khắc phục ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường.

Công tác quản lý nhà nước về BVMT có nhiều chuyển biến mạnh mẽ; sự phối hợp giữa ngành Tài nguyên và Môi trường với các cơ quan ngày càng chặt chẽ; kinh phí đầu tư để khắc phục ô nhiễm môi trường được tỉnh quan tâm; thực hiện tốt công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải sinh hoạt, chất thải rắn y tế. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học công nghệ, hợp tác quốc tế, xã hội hóa BVMT, đã có “9/10 khu công nghiệp đã hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải tập trung, lắp đặt trạm quan trắc nước thải tự động liên tục; lắp đặt và duy trì hiệu quả hoạt động 12 trạm quan trắc nước mặn và 18 trạm quan trắc môi trường không khí tự động” (4). Kết quả trên đã góp phần vào cải thiện môi trường, nâng cao sức khỏe nhân dân và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.

Bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế, bất cập trong BVMT của tỉnh, hạn chế đó làm cho phát triển ở Bắc Ninh thời gian qua chưa thực sự bền vững, “tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số địa bàn còn diễn biến phức tạp, xử lý chậm, nhất là tại cụm công nghiệp, làng nghề và khu dân cư”(5). Công tác triển khai thực hiện các văn bản về BVMT của Trung ương, tỉnh, huyện ở một số cơ sở chưa tích cực, hiệu quả chưa cao. Sự phối hợp chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ BVMT của các ngành có lúc chưa chặt chẽ. Việc nhân rộng các phong trào, mô hình của các cấp hội ở cơ sở còn hạn chế, chưa tạo nên sức lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng.

Công tác quy hoạch xây dựng hạ tầng kỹ thuật về các công trình xử lý rác thải, nước thải trong các cụm công nghiệp, làng nghề chưa được đầu tư đồng bộ; cụm công nghiệp chưa được đầu tư xây dựng hạ tầng BVMT. “Việc triển khai đầu tư xây dựng khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt công nghệ cao phát năng lượng (tại huyện Quế Võ, Lương Tài, Thuận Thành), xây dựng lò đốt rác thải sinh hoạt công suất nhỏ (tại huyện Yên Phong, Tiên Du và thị xã Từ Sơn) còn chậm so với tiến độ thực hiện Đề án tổng thể bảo vệ môi trường tỉnh” (6).

Tình trạng các cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phát thải vượt quy chuẩn cho phép gây ô nhiễm môi trường vẫn còn diễn ra. Tình trạng lạm dụng các loại phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp khá phổ biến; nước thải sinh hoạt của một số thị trấn, khu dân cư chưa được thu gom, xử lý; ô nhiễm không khí và tiếng ồn tại các khu đô thị và ô nhiễm môi trường tại các làng nghề chậm được khắc phục; việc quản lý, khai thác, sử dụng nguồn nước theo lưu vực sông kém hiệu quả; diện tích mặt nước ao, hồ bị thu hẹp; ở nhiều địa phương, công tác phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn thực hiện chưa tốt. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các trường hợp cố tình vi phạm chưa đủ sức răn đe.

Một số chỉ tiêu chưa đạt so với mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, “chất thải rắn sinh hoạt được thu gom (đạt 90%), chất thải rắn sinh hoạt được xử lý (đạt 70%); cơ sở gây ô nhiễm môi trường chưa được khắc phục (đạt 75%); cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn môi trường (chỉ đạt 22,2%); tỷ lệ người dân nông thôn được dùng nước sạch theo chuẩn mới (đạt 67%)” (7).

Giải pháp BVMT hướng đến PTBV ở tỉnh Bắc Ninh

Những hạn chế trong BVMT của tỉnh thời gian qua xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là cơ bản. Để khắc phục hạn chế, góp phần BVMT, hướng đến PTBV, cần tập trung thực hiện một số giải pháp:

Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với công tác BVMT hướng đến PTBV

Đây là giải pháp cơ bản, xuyên suốt, giúp công tác BVMT của tỉnh đi đúng hướng, thật sự hướng đến và vì sự PTBV. Vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng và sự điều hành của chính quyền các cấp luôn giữ vai trò quyết định trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội nói chung, BVMT nói riêng. Trong những năm vừa qua, vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự điều hành, quản lý của chính quyền các cấp của tỉnh đã được thể hiện khá rõ nét, nhờ đó mà công tác BVMT đã mang lại những tín hiệu rất tích cực. Tuy nhiên, thực tế thấy rằng sự vào cuộc của một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa quyết liệt, chưa quan tâm đúng mức đến BVMT, còn xem BVMT là trách nhiệm của ngành Tài nguyên và Môi trường. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BVMT còn bất cập, nhiều nội dung chưa phù hợp với tình hình thực tiễn tại các địa phương; sự phân cấp trách nhiệm quản lý giữa ngành Tài nguyên và Môi trường và các ban, ngành có liên quan, UBND cấp huyện, cấp xã chưa rõ ràng, còn chồng chéo.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải xác định BVMT là nhiệm vụ cần tập trung trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện thường xuyên, lâu dài; phải đưa BVMT thành tiêu chí đánh giá thi đua ở cơ quan, đơn vị, địa phương và cán bộ, công chức, viên chức, hội viên, đoàn viên, người lao động hằng năm; đồng thời phát huy tốt vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên trong giữ gìn, BVMT ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm cho các đối tượng về BVMT hướng đến PTBV

Để nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm cho các đối tượng về BVMT, công tác giáo dục, tuyên truyền được cấp ủy, chính quyền các cấp của tỉnh đặc biệt chú trọng: phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông trong giáo dục, tuyên truyền với nội dung phong phú, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng đối tượng; thông qua các lớp tập huấn, các hội nghị, tin, bài, phóng sự trên trang báo viết, báo hình, báo nói, phát tờ rơi, tổ chức mít tinh, ra quân hưởng ứng các ngày kỷ niệm về môi trường. Vai trò của Ban Tuyên giáo, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở VHTTDL, Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Liên minh hợp tác xã, Báo Bắc Ninh, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh được thể hiện rõ nét. Nhiều kế hoạch, các cuộc vận động, phong trào, mô hình của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội được triển khai, tổ chức thực hiện và đạt được kết quả tích cực, lan tỏa trong các tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức về BVMT.

Tuy nhiên, nhận thức pháp luật của một bộ phận người dân, doanh nghiệp trong bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên môi trường còn hạn chế; ý thức tự giác tuân thủ pháp luật về BVMT chưa cao. Một số doanh nghiệp chưa chấp hành nghiêm túc các quy định của pháp luật về BVMT, chậm đầu tư các hệ thống xử lý nước thải, khí thải theo quy định.

Những hạn chế trên đặt ra yêu cầu trong công tác tuyên truyền, giáo dục cần: phát huy vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp trong tuyên truyền, giáo dục các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, các văn bản chỉ đạo của tỉnh về BVMT hướng đến PTBV; đổi mới nội dung, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền gắn với chương trình phối hợp giữa các ngành và các tổ chức chính trị - xã hội để có sự chỉ đạo trọng tâm, trọng điểm theo từng địa phương, đơn vị còn tồn tại về môi trường; chú trọng tuyên truyền cho thanh, thiếu nhi và nhân dân nếp sống thân thiện với môi trường; tuyên truyền cho các cơ sở sản xuất kinh doanh để nâng cao tính tự giác trong BVMT; tuyên truyền, nhân rộng các tập thể, cá nhân, doanh nghiệp có cách làm hay, mô hình sáng tạo trong hoạt động BVMT; phát triển mô hình cộng đồng dân cư tự quản trong hoạt động BVMT; công bố các hành vi vi phạm pháp pháp luật về BVMT trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tạo dư luận xã hội lên án nghiêm khắc đối với các hành vi đó...

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về BVMT hướng đến PTBV

Trách nhiệm quản lý nhà nước về BVMT của tỉnh Bắc Ninh thuộc về UBND tỉnh, có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan chuyên môn, UBND cấp huyện, UBND cấp xã thực hiện quy định của pháp luật về BVMT; ban hành quy định khuyến khích, tổ chức thực hiện xã hội hóa đầu tư xây dựng, kinh doanh và vận hành công trình hạ tầng BVMT.

Để làm tốt công tác quản lý nhà nước về BVMT hướng đến PTBV trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đòi hỏi tiếp tục nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của UBND các cấp, các ngành và trách nhiệm của người đứng đầu các cấp chính quyền, ban, ngành, đoàn thể trong BVMT; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BVMT; hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý môi trường ở các cấp; tăng cường đào tạo trình độ, năng lực chuyên môn cho cán bộ làm công tác môi trường; tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về BVMT; thực hiện sàng lọc dự án đầu tư theo tiêu chí về môi trường; áp dụng công cụ quản lý môi trường phù hợp theo từng giai đoạn của chiến lược, quy hoạch, chương trình và dự án đầu tư; lồng ghép, thúc đẩy các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án phát triển kinh tế, xã hội.

Tăng cường nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ xử lý ô nhiễm, tái chế, xử lý chất thải; ưu tiên chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường

Hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, ứng dụng chuyển giao công nghệ về BVMT bao gồm: sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tiết kiệm năng lượng, bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và thân thiện môi trường; tái sử dụng, tái chế chất thải, xử lý chất thải, cải tạo và phục hồi môi trường; kiểm soát, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, quan trắc, dự báo các biến đổi môi trường và nghiên cứu xây dựng các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.

Sự phát triển kinh tế, xã hội tại Bắc Ninh đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho BVMT của tỉnh. Từ thực tiễn BVMT những năm qua cho thấy, việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngày càng trở nên cấp thiết, góp phần nâng cao hiệu quả BVMT. Do đó, để BVMT hướng đến PTBV, hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ của tỉnh cần: tập trung vào đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của các cấp, doanh nghiệp và toàn xã hội về vai trò, tầm quan trọng của khoa học và công nghệ, đặc biệt là các công nghệ thân thiện với môi trường; tăng cường tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ quản lý môi trường các cấp và cán bộ vận hành hệ thống xử lý môi trường tại các cơ sở chăn nuôi, sản xuất kinh doanh, bệnh viện, khu, cụm công nghiệp... về ứng dụng khoa học và công nghệ trong xử lý môi trường; có chính sách thu hút, đa dạng hóa các nguồn đầu tư trong và ngoài nước; cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan quản lý khoa học nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ sinh học trong phát triển kinh tế và BVMT; cập nhật, phổ biến thông tin về các công nghệ tiên tiến trong sản xuất và bảo vệ môi trường để doanh nghiệp, cơ sở sản xuất lựa chọn đầu tư, trong đó “đầu tư xây dựng, đưa vào hoạt động, phát huy hiệu quả các nhà máy xử lý rác thải, nhất là nhà máy đốt rác phát điện công nghệ cao tại huyện Quế Võ, Thuận Thành và Lương Tài” (8).

_________________

1. Các quy định pháp luật về môi trường, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.31.

2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường, Luật số: 72/2020/QH14, khoản 2, khoản 1, điều 4.

3, 4, 5, 7, 8. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020-2025, Văn phòng Tỉnh ủy, 2020, tr.64, 65, 80, 81, 118-119.

6. Tỉnh ủy Bắc Ninh, Báo cáo số 351-BC/TU ngày 12-6-2020 Về sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận số 154-KL/TU ngày 5-1-2015 của Thường trực Tỉnh ủy, Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15-11-2004 của Bộ Chính trị Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và 4 năm thực hiện nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 8-11-2016 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với bảo vệ môi trường, Văn phòng Tỉnh ủy, tr.5.

LẠI ANH TUẤN 

Nguồn: Tạp chí VHNT số 545, tháng 9-2023

;