Vai trò của bộ máy tra cứu tin trong công tác đào tạo theo phương thức tín chỉ

  Đào tạo theo tín chỉ là phương thức đặt người học vào vị trí trung tâm của quá trình đào tạo. Người học được rèn thói quen tự học, tự khám phá kiến thức, có kỹ năng giải quyết vấn đề, chủ động thời gian hoàn thành một môn học, một chương trình đào tạo, khắc phục được việc học thụ động, thiếu tư duy phê phán. Tuy nhiên, để phương thức đào tạo này đạt hiệu quả cao đòi hỏi người học phải được tiếp cận và khai thác các nguồn thông tin một cách dễ dàng. Bộ máy tra cứu tin là phương tiện, công cụ giúp người học tìm kiếm và lựa chọn những thông tin phù hợp. Nó là cầu nối giữa người dùng tin với nguồn lực thông tin. Bộ máy tra cứu tin là một trong những nhân tố quan trọng góp phần quyết định hiệu quả của công tác thư viện, đặc biệt là công tác phục vụ tra tìm thông tin cho người học.

 

  1. Mở đầu

  Trong giai đoạn đổi mới, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng tới phát triển giáo dục - đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học. Điều này đã được khẳng định trong Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020: “Đổi mới giáo dục đại học là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước”. Đổi mới giáo dục đại học chính là cơ sở, tiền đề để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và bền vững. Sự đổi mới đó đã được thể hiện cụ thể bằng việc “Xây dựng học chế tín chỉ thích hợp cho giáo dục đại học ở nước ta và vạch ra lộ trình hợp lý để toàn bộ hệ thống giáo dục đại học chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ”.

  Với triết lý “Tôn trọng người học, xem người học làm trung tâm của quá trình đào tạo”, phương thức đào tạo theo tín chỉ được triển khai với mục tiêu đào tạo theo một học chế mềm dẻo, thể hiện rõ tính dân chủ trong đào tạo, hướng về người học để tăng cường tính chủ động trong học tập, tự học, tự nghiên cứu. Người học có cơ hội nâng cao ý thức trách nhiệm và khả năng linh hoạt trong việc chủ động chọn môn học, chọn thày dạy, xây dựng chương trình và sắp xếp lịch học hợp lý nhất phù hợp với kinh phí, năng lực, thời gian và kế hoạch làm việc của mình.

  Để triển khai đào tạo theo phương thức tín chỉ, nhà trường cần phải đảm bảo các điều kiện cơ bản như: chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất… đặc biệt phải có đủ điều kiện về nguồn học liệu: “Thư viện của trường đại học có đầy đủ sách, giáo trình, tài liệu tham khảo tiếng Việt và tiếng nước ngoài, đáp ứng yêu cầu sử dụng của cán bộ, giảng viên và người học. Có thư viện điện tử được nối mạng, phục vụ dạy, học và nghiên cứu khoa học có hiệu quả”. Với vai trò là cầu nối giữa người dùng tin và nguồn lực thông tin, bộ máy tra cứu tin đã và đang giúp người học có thể tiếp cận và khai thác thông tin một cách nhanh chóng, đầy đủ và chính xác. Vậy bộ máy tra cứu tin là gì và nó có vai trò như thế nào đối với công tác đào tạo theo phương thức tín chỉ?

 

Sinh viên Trường Đại học Duy Tân khai thác tài nguyên số tại thư viện của trường  
Ảnh: Thanh Giang

  2. Khái quát về bộ máy tra cứu tin

  Trong các văn bản pháp luật về thư viện Việt Nam có quy định: Thư viện có chức năng nhiệm vụ giữ gìn di sản thư tịch của dân tộc; thu thập tàng trữ, tổ chức việc khai thác sử dụng chung vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí của mọi tầng lớp nhân dân; góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học công nghệ, kinh tế, văn hóa, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ đó, các cơ quan thông tin - thư viện đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện bộ máy tra cứu tin để có thể thu thập, lưu trữ và phổ biến nguồn lực thông tin của mình đến với đông đảo người sử dụng. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi khoa học - công nghệ phát triển nhanh và mạnh, đã tạo ra cho xã hội một khối lượng thông tin khổng lồ. Khối lượng thông tin gia tăng nhanh chóng dẫn đến hiện tượng “bùng nổ thông tin”. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức với người dùng tin. Người dùng tin có cơ hội được tiếp cận và sử dụng nguồn thông tin phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, họ cũng dễ bị rơi vào tình trạng “nhiễu” khi được tiếp cận quá nhiều thông tin nhưng lại thiếu công cụ kiểm soát và hỗ trợ. Chính vì vậy, bộ máy tra cứu tin đã chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong bất kỳ một thư viện nào dù đó là một thư viện nhỏ hay là thư viện lớn.

  Bộ máy tra cứu tin là tập hợp các công cụ, phương tiện cho phép tra tìm và cung cấp các tài liệu/ thông tin (dữ kiện, số liệu) phù hợp với diện đề tài bao quát của cơ quan thông tin - thư viện, đáp ứng yêu cầu tin của người dùng tin; là công cụ giúp người dùng tin tìm kiếm và lựa chọn những thông tin phù hợp nhu cầu của họ.

  Đối với cán bộ thư viện, bộ máy tra cứu tin là phương tiện khai thác các nguồn thông tin hiệu quả để từ đó, trả lời các yêu cầu tin của người dùng cũng như giới thiệu tới họ nguồn lực thông tin của thư viện. Nhờ có bộ máy tra cứu tin, cán bộ thư viện có thể nắm bắt được nguồn lực thông tin hiện có trong thư viện để phổ biến và phục vụ thông tin sát hợp với yêu cầu tin cụ thể của người dùng tin.

  Đối với người dùng tin, bộ máy tra cứu tin là công cụ, phương tiện tìm kiếm và lựa chọn những tài liệu, thông tin phù hợp với yêu cầu của mình. Nó chính là cầu nối giữa người dùng tin với nguồn lực thông tin của thư viện.

  Trên cơ sở các hình thức lưu trữ thông tin, bộ máy tra cứu tin được chia thành hai loại: Bộ máy tra cứu tin truyền thống: gồm các thành phần như hệ thống mục lục, kho tài liệu tra cứu, hồ sơ trả lời bạn đọc, các bộ phiếu tra cứu thư mục, các bộ phiếu tra cứu dữ kiện... Bộ máy tra cứu tin hiện đại: gồm các cơ sở dữ liệu lưu trữ thông tin, các phần cứng, phần mềm để người dùng tin truy cập và khai thức dữ liệu. Cơ sở dữ liệu trên máy tính giúp người dùng tin tra cứu thông tin được nhanh chóng, chính xác và thuận tiện hơn, khắc phục được những nhược điểm mà bộ máy tra cứu truyền thống mắc phải. Tuy nhiên, để tra cứu trên bộ máy tra cứu hiện đại, đòi hỏi người dùng tin phải có trình độ về tin học. Mỗi bộ máy tra cứu tin đều có những ưu và nhược điểm riêng, nên chúng cùng tồn tại song song, bổ sung và hỗ trợ cho nhau giúp các cơ quan thông tin - thư viện và người dùng tin thực hiện tốt các dịch vụ tra cứu thông tin.

  3. Phương thức đào tạo theo tín chỉ

  Có rất nhiều định nghĩa về tín chỉ, theo các cách tiếp cận khác nhau, trong đó định nghĩa của James Quann thuộc Đại học quốc gia Washington được mọi người biết đến nhiều nhất: “Tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm: Thời gian lên lớp; thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khóa biểu; và thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài...”. Như vậy, đào tạo theo học chế tín chỉ là phương thức đào tạo trong đó người học được cấp bằng sau khi tích lũy đủ các kiến thức cần thiết.

  Tuy nhiên, để triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ, các trường đại học và cao đẳng cần phải đảm bảo các điều kiện cần và đủ. Quyết định số 31/2001/QĐ-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày 30-7-2001 về việc thí điểm tổ chức đào tạo, kiểm tra, thi và công nhận tốt nghiệp đại học, cao đẳng hệ chính quy theo học chế tín chỉ đã chỉ rõ 5 điều kiện mà các trường cần phải có.

  1. Đã thiết kế hoàn chỉnh chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ. Mỗi ngành đào tạo phải có nhiều học phần tự chọn để sinh viên có thể lựa chọn theo định hướng phát triển nghề nghiệp.

  2. Có đủ các hướng dẫn về tổ chức đào tạo, chương trình đào tạo toàn khóa của từng ngành đào tạo, chương trình chi tiết các học phần, số học phần sẽ bố trí giảng dạy trong từng học kỳ và lịch trình giảng dạy để cung cấp cho sinh viên.

  3. Có đủ số lượng giảng viên có trình độ chuyên môn để giảng dạy về lý thuyết, thực hành, thực tập theo yêu cầu chuyên môn.

  4. Có đội ngũ giảng viên tham gia làm chủ nhiệm lớp, để giúp đỡ sinh viên trong quá trình học tập.

  5. Có đủ sách tham khảo, tài liệu học tập .

  Như vậy, có thể thấy, bên cạnh việc cần phải chuẩn bị kỹ về chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất…, các trường muốn triển khai tốt phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ cũng cần phải chú ý đảm bảo nguồn học liệu đủ về số lượng và đúng về nội dung. Bởi đào tạo theo tín chỉ là phương thức đòi hỏi sinh viên phải phát huy tối đa khả năng tự học, tự tìm hiểu trên cơ sở hướng dẫn của giảng viên, chủ động tìm hiểu kiến thức qua các nguồn thông tin khác nhau để giải quyết các vấn đề giảng viên nêu ra trên lớp cũng như mở rộng hơn vốn kiến thức của mình. Nếu nguồn học liệu thiếu hay yếu thì vai trò trung tâm của người học sẽ không thể phát huy được cũng như không thể loại bỏ triệt để hình thức học tập thụ động như trước đây: “thày đọc, trò chép”.

  4. Vai trò của bộ máy tra cứu tin trong công tác đào tạo theo phương thức tín chỉ

  Giúp thư viện khai thác hiệu quả nguồn lực thông tin

  Thư viện là một bộ phận hợp thành trường đại học, là một nhân tố không thể thiếu trong công tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường đại học. Để thực hiện nhiệm vụ chính là cung cấp thông tin phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng viên, sinh viên trong toàn trường, hằng năm, thư viện vẫn luôn làm giàu nguồn lực thông tin của mình bằng nhiều hình thức khác nhau như: mua, trao đổi, biếu tặng… Tuy nhiên, nguồn lực thông tin đó dù có phong phú và đa dạng đến đâu cũng trở thành vô giá trị nếu không được khai thác. Thư viện có được đầu tư trang thiết bị hiện đại đến đâu mà không được sử dụng cũng là thư viện chết. Chính vì vậy, với vai trò là cầu nối giữa người dùng tin và nguồn lực thông tin, là phương tiện khai thác thông tin hữu hiệu, bộ máy tra cứu tin giúp người dùng tin tiếp cận, khai thác dễ dàng nguồn lực thông tin, đồng thời cũng giúp thư viện giới thiệu, quảng bá nguồn lực thông tin tới đông đảo người dùng tin. Từ đó, người dùng tin của thư viện bao gồm toàn bộ cán bộ, giảng viên, sinh viên trong trường có được nguồn tài liệu giá trị phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu của họ, góp phần từng bước nâng cao chất lượng công tác giáo dục - đào tạo của nhà trường, nhất là khi nhà trường đã triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ.

  Hỗ trợ quá trình tự học, tự nghiên cứu của người học

  Với phương thức đào tạo theo tín chỉ, nguồn học liệu luôn có vị trí quan trọng. Nó có thể ảnh hưởng đến sự thành bại của phương thức đào tạo này. Nguồn học liệu phong phú, đa dạng sẽ không chỉ giúp cho giảng viên chuẩn bị và cập nhật bài giảng được đầy đủ mà còn giúp cho sinh viên có thể tiếp cận, khai thác thông tin một cách tối ưu. Như chúng ta đã biết, phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ là dạy cho người học cách tìm kiếm, xử lý và tự tích luỹ kiến thức dưới sự chỉ đạo và kiểm soát của người thày, nghĩa là đòi hỏi người học phải tăng cường tự học, tự nghiên cứu. Do đó, khi giảng dạy một môn học mới, giảng viên luôn chú trọng việc cung cấp danh mục nguồn học liệu bắt buộc hay đọc thêm về môn học để sinh viên tham khảo. Sinh viên muốn học tốt, cần phải tự tìm hiểu và nghiên cứu các nguồn học liệu đó. Chính vì vậy, họ luôn cần có công cụ để hỗ trợ tìm kiếm và khai thác các nguồn học liệu theo yêu cầu một cách nhanh nhất, đầy đủ và chính xác nhất. Bộ máy tra cứu tin chính là phương tiện hữu hiệu giúp sinh viên thỏa mãn nhu cầu đó. Khi sinh viên được đáp ứng đầy đủ thông tin, họ có thể dễ dàng thực hiện việc tự học, tự nghiên cứu của mình.

  Giúp người dạy thực hiện tốt vai trò “là người chỉ đường”

  Trước yêu cầu của phương thức đào tạo theo tín chỉ, vai trò của giảng viên đã có ít nhiều thay đổi. Thay vì là người đồng hành, người chủ động cung cấp các bài giảng soạn sẵn một cách đơn điệu thì giảng viên sẽ là người chỉ đường, người hướng dẫn, người trọng tài đánh giá hoạt động tiếp nhận tri thức một cách sáng tạo của sinh viên. Giảng viên sẽ là người nêu ra vấn đề cùng với các nguồn học liệu tham khảo phong phú để hướng dẫn sinh viên tự sưu tầm, tự tìm hiểu, nghiên cứu. Trên cơ sở các thông tin sinh viên thu thập được, giảng viên sẽ cùng sinh viên trao đổi, thảo luận và tìm ra lời giải. Tuy nhiên, để làm tốt vai trò của “người chỉ đường”, giảng viên phải là những người đi tiên phong trong việc nắm giữ thông tin về các nguồn học liệu môn học. Họ phải làm chủ được thông tin để từ đó giới thiệu và hướng dẫn tới sinh viên. Để làm được điều đó, giảng viên cũng cần đến sự hỗ trợ của bộ máy tra cứu tin.

  5. Kết luận

  Có thể nói rằng, trường đại học sẽ không thể làm tốt nhiệm vụ đào tạo của mình nếu không có sự đóng góp tích cực của thư viện nói chung và bộ máy tra cứu tin nói riêng. Bởi đào tạo theo tín chỉ là phương thức đòi hỏi sinh viên phải phát huy tối đa khả năng tự học, tự tìm hiểu trên cơ sở hướng dẫn của giảng viên, chủ động tìm hiểu kiến thức qua các nguồn thông tin khác nhau để giải quyết các vấn đề giảng viên nêu ra trên lớp cũng như mở rộng hơn vốn kiến thức của mình. Nếu nguồn học liệu thiếu hay yếu thì vai trò trung tâm của người học sẽ không thể phát huy được. Chính vì vậy, các thư viện cần phải không ngừng nâng cao chất lượng bộ máy tra cứu tin của mình để có thể đáp ứng nhu cầu tìm kiếm và khai thác thông tin ngày càng cao và đa dạng của người dùng tin, góp phần phục vụ hiệu quả công tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường đại học.

 

Tác giả: Nguyễn Thanh Thủy

Nguồn: Tạp chí VHNT số 423, tháng 9 - 2019

 

;