Thủ tướng: Phải đẩy mạnh chuyển đổi số một cách nhanh chóng, hiệu quả và thực chất

Đó là phát biểu chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính - Chủ tịch Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số tại phiên họp lần thứ ba của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số vào sáng ngày 8-8.

Tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì phiên họp của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số. Phiên họp được kết nối trực tuyến tới trụ sở các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì phiên họp của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số tại điểm cầu trụ sở Chính phủ - Ảnh: chinhphu.vn

Tham dự cuộc họp còn có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban; Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban; các đồng chí Ủy viên Ủy ban: Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Trần Văn Sơn, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, Trung tướng Nguyễn Duy Ngọc, Thứ trưởng Bộ Công an.

Phát biểu khai mạc phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, chuyển đổi số quốc gia là một nhiệm vụ rất quan trọng, gắn với 3 trụ cột chính: chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số.

Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, đòi hỏi khách quan của sự phát triển và được xác định là yêu cầu bắt buộc. Chuyển đổi số giúp giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường, xã hội; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh, giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp, đồng thời giúp các cấp, các ngành thay đổi phương thức và nâng cao năng lực quản lý điều hành. Ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số là phù hợp với phẩm chất, năng lực con người Việt Nam cần cù, ham học hỏi, linh hoạt, và sáng tạo.

Tiến trình chuyển đổi số trong nước đang diễn ra rất mạnh mẽ, sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều địa phương. Khi dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, chuyển đổi số trở thành đòi hỏi bức thiết của các cấp, các ngành, các địa phương và người dân, doanh nghiệp để vừa phòng, chống dịch hiệu quả vừa phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết thực sự hiệu quả nhiều vấn đề liên quan tới thống kê, tiêm chủng, xét nghiệm, bảo đảm an sinh xã hội...

Khi dịch bệnh được kiểm soát, chuyển đổi số tiếp tục là công tác trọng tâm, góp phần quan trọng phục hồi nhanh, phát triển bền vững kinh tế-xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả; lấy nội lực là cơ bản, chiến lược, quyết định, lâu dài, ngoại lực là quan trọng, đột phá; tập trung thực hiện 3 đột phá chiến lược về thể chế, nhân lực và hạ tầng.

Thủ tướng đề nghị các đại biểu thẳng thắn đánh giá rõ ràng, khách quan, minh chứng bằng số liệu cụ thể về việc thực hiện nhiệm vụ thời gian qua, những nhiệm vụ được phân công theo Kế hoạch hoạt động năm 2022 - Ảnh: VGP

Thủ tướng nhấn mạnh: Chuyển đổi số là chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước, là công việc phải thường xuyên, liên tục theo dõi, đánh giá, đôn đốc, chỉ đạo sát sao và quyết liệt triển khai. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải đẩy mạnh chuyển đổi số một cách nhanh chóng, hiệu quả và thực chất, triển khai các nhiệm vụ toàn diện, đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó.

Nhiệm vụ của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số là rất nặng nề; phải chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương, cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia, gắn kết chặt chẽ với cải cách hành chính; xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và đô thị thông minh; tạo thuận lợi cho việc triển khai cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tại Việt Nam.

Thủ tướng đề nghị các đại biểu thẳng thắn đánh giá rõ ràng, khách quan, minh chứng bằng số liệu cụ thể về việc thực hiện nhiệm vụ thời gian qua, những nhiệm vụ được phân công theo Kế hoạch hoạt động năm 2022 của Ủy ban và những nhiệm vụ được giao tại Phiên họp lần trước của Ủy ban, phân tích rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, nhất là nguyên nhân chủ quan; tinh thần là làm việc thực chất, mang lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc, cho nhân dân.

Tại phiên họp, Lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông - Cơ quan thường trực Ủy ban đã báo cáo về công tác chuyển đổi số trong 6 tháng đầu năm 2022. Báo cáo đã tập trung phân tích, đánh giá về tình hình chuyển đổi số trong 6 tháng đầu năm, những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế, khó khăn, vướng mắc cũng như đưa ra các kiến nghị, đề xuất để thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số thời gian tới.

Các chỉ tiêu đã đạt được trong 6 tháng đầu năm so với mục tiêu cả năm: tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử đạt 100% - 100%; Tỷ trọng doanh thu thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt 11,27% - 7%; tỷ lệ người dân từ 15 tuổi có tài khoản thanh toán là 66% - 65%.

Các chỉ tiêu cần tiếp tục nỗ lực trong 6 tháng cuối năm so với mục tiêu cả năm: tỷ lệ dân số trưởng thành có điện thoại thông minh là 70,91% - 85%; tỷ lệ hộ gia đình Internet cáp quang băng rộng là 71,75% - 75%; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ sơ là 45,78% - 80%; tỷ lệ hồ sơ thủ tục hành chính xử lý trực tuyến là 36,91% - 50%; tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử là 33% - 50%; tỷ lệ cơ quan nhà nước cung cấp dữ liệu mở là 3% - 50%; tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số là 6% - 30%.

Thủ tướng Chính phủ quyết định ngày 10-10 là Ngày Chuyển đổi số quốc gia. Chủ đề năm 2022 là “Chuyển đổi số giải quyết các vấn đề của xã hội vì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân”. Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Kế hoạch hướng dẫn thực hiện. Theo đó, hoạt động hưởng ứng năm 2022 tập trung vào các sáng kiến mang lại lợi ích thiết thực cho người dân; thúc đẩy, quảng bá toàn dân sử dụng sản phẩm, dịch vụ số Việt Nam; thúc đẩy phổ cập kỹ năng số, giúp người dân được thụ hưởng kết quả chuyển đổi số. Việc phổ biến nâng cao nhận thức về chuyển đổi số thời gian qua ở một số địa phương vẫn mang tính hình thức, chưa mang lại nhiều hiệu quả thiết thực cho người dân. Đề nghị các bộ, ngành, địa phương chưa chọn ngày Chuyển đổi số riêng lấy ngày Chuyển đổi số quốc gia làm ngày Chuyển đổi số của bộ, ngành, địa phương để tạo sự lan tỏa, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.

Về việc chia sẻ bài toán, sáng kiến, cách làm về chuyển đổi số, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tổng hợp và công bố 55 bài toán chuyển đổi số của các bộ, ngành và địa phương tại địa chỉ: https://c63.mic.gov.vn. Tổng hợp và công bố 21 câu chuyện chuyển đổi số Việt Nam từ các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp để lan tỏa những sáng kiến, cách làm, kinh nghiệm, bài học, mô hình tham khảo về chuyển đổi số tại địa chỉ: https://t63.mic.gov.vn. Về tồn tại, hạn chế: Các bộ, ngành, địa phương vẫn lúng túng trong việc xác định tường minh bài toán chuyển đổi số của mình và thứ tự cần ưu tiên giải quyết, vẫn thực hiện tuyên truyền, phổ biến theo cách thức truyền thống, chưa gắn với yêu cầu thực tiễn của bộ, ngành, địa phương; Đề nghị các bộ, ngành, địa phương cần xác định tường minh bài toán chuyển đổi số của mình, xuất phát từ chính đặc thù và có tham vấn ý kiến các đơn vị liên quan. Chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp cùng các đơn vị tại địa phương chủ động tìm kiếm những sáng kiến, cách làm, mô hình điển hình về chuyển đổi số trên địa bàn để thực hiện tuyên truyền, phổ biến, nhân rộng.

Kênh truyền thông "Chuyển đổi số quốc gia" trên Zalo, cập nhật hằng ngày thông tin mới nhất về chuyển đổi số, đã thu hút được khoảng 20.000 người theo dõi kênh. Tồn tại, hạn chế: Ước lượng khoảng 230.000 người đang tham gia triển khai chuyển đổi số. Như vậy, số người tham gia mới đạt khoảng 10%. Đề nghị các bộ, ngành, địa phương chỉ đạo cán bộ các cấp tham gia vào kênh truyền thông chuyển đổi số quốc gia để được cập nhật kịp thời thông tin mới nhất về chuyển đổi số phục vụ công tác.

Về thể chế số: 22/22 bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành chương trình/kế hoạch/đề án chuyển đổi số giai đoạn 5 năm; 19/22 bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành kế hoạch hành động năm 2022. 60/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành nghị quyết/chỉ thị/văn bản của tỉnh ủy/thành ủy về chuyển đổi số. 62/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành chương trình/kế hoạch/đề án chuyển đổi số giai đoạn 5 năm. 53/63 địa phương đã ban hành kế hoạch năm 2022.

Một số địa phương chưa ban hành nghị quyết của cấp ủy, kế hoạch hành động 5 năm và kế hoạch hằng năm của cấp chính quyền về chuyển đổi số. Kế hoạch hành động năm 2022 của nhiều bộ, ngành, địa phương còn thiếu chi tiết, chưa xác định rõ trách nhiệm và nguồn lực triển khai. Đề nghị các bộ, ngành, địa phương chưa ban hành nghị quyết của cấp ủy, kế hoạch 5 năm, kế hoạch năm 2022 của cấp chính quyền về chuyển đổi số khẩn trương ban hành các văn bản này. Tập trung nguồn lực triển khai theo tiến độ, điều chỉnh nội dung Kế hoạch nếu cần để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm chuyển đổi số năm 2022. Đôn đốc, giám sát thực hiện, định kỳ hàng năm thực hiện sơ kết, đánh giá tình hình thực hiện.

Về nhân lực số: 15/63 tỉnh, thành phố đã ban hành Kế hoạch triển khai Đề án nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. 47/63 tỉnh, thành phố đã triển khai 40.590 Tổ công nghệ số cộng đồng đến tận thôn, xóm với hơn 200.000 thành viên tham gia. Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai Nền tảng học trực tuyến mở đại trà, đã hoàn thành 3 khóa bồi dưỡng về chuyển đổi số cho 1.648 công chức, viên chức là đội ngũ nòng cốt về chuyển đổi số của bộ, ngành, địa phương.

Tồn tại, hạn chế: Về số lượng, tỷ lệ nhân lực công nghệ thông tin/tổng số lao động của Việt Nam ước đạt gần 1%, thấp hơn một số quốc gia mạnh về công nghệ thông tin như Hoa Kỳ (4%), Hàn Quốc (2,5%), Ấn Độ (1,78%). Việt Nam chưa có chuẩn kỹ năng số quốc gia, chưa có các nội dung nghiên cứu mới phù hợp với công nghệ hiện tại. Về tổ chức triển khai, Tổ công nghệ số cộng đồng tại địa phương còn mang tính hình thức, chưa mang lại hiệu quả thiết thực.

Về an toàn, an ninh mạng: Bộ Thông tin và Truyền thông đã ghi nhận, cảnh báo và hướng dẫn xử lý 6.641 cuộc tấn công mạng gây ra sự cố vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam, tăng 37,92% so với cùng kỳ năm 2021 và tăng 35,14% so với đầu năm 2022. Doanh thu an toàn thông tin mạng đạt 1.418 tỷ đồng, tăng 48,8% so với cùng kỳ năm 2021. Tỷ lệ nhóm sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng của Việt Nam so với 22 nhóm sản phẩm hệ sinh thái an toàn thông tin mạng đạt 95,5%. Tỷ lệ sản xuất/nhập khẩu tháng 6-2022 đạt 72,6%. Đã có 922/3022 hệ thống thông tin của cơ quan nhà nước được phê duyệt Hồ sơ đề xuất cấp độ an toàn thông tin, đạt 31%.

Tồn tại, hạn chế: Trên 95% các bộ, ngành và địa phương chưa thực hiện đầy đủ hoạt động kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin định kỳ. 100% cơ quan chưa thực hiện kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin mã nguồn đối với các hệ thống thông tin trước khi đưa vào sử dụng và khi nâng cấp, cập nhật. Nhân lực an toàn thông tin mạng chưa đáp ứng yêu cầu, bình quân mỗi đơn vị chuyên trách về an toàn thông tin mạng của bộ, ngành và địa phương có 2,4 người, bằng một nửa so với yêu cầu tối thiểu là 5 người. Các bộ, ngành, địa phương mới thực hiện triển khai giám sát an toàn thông tin ở mức cơ bản, chưa chú trọng giám sát lớp ứng dụng và lớp endpoint.

Về Chính phủ số: Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước kết nối 4 cấp hành chính. Đến nay, mạng đã kết nối đến 100% huyện, hơn 97% xã trên toàn quốc. Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) tiếp tục phát huy hiệu quả. Trong 6 tháng đầu năm 2022 đạt khoảng 350 triệu giao dịch, tăng hơn 25 lần so với cùng kỳ năm 2021, trung bình hàng ngày có khoảng 1,9 triệu giao dịch thực hiện thông qua NDXP.

Phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia (CSDL): CSDL quốc gia về dân cư được đẩy mạnh triển khai, kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ cung cấp dịch vụ công trực tuyến và các tiện ích cho người dân và doanh nghiệp. Bộ Công an đã hoàn thành 9/11 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Tích hợp thử nghiệm về mặt kỹ thuật, giải pháp đối với việc xác thực danh tính qua thẻ CCCD gắn chip điện tử được trang bị tại các quầy giao dịch của 5 Ngân hàng (BIDV, Viettinbank, Vietcombank, Agribank, PVcombank). Thí điểm sử dụng thẻ CCCD thay thẻ ATM tại một số chi nhánh của 3 ngân hàng lớn (BIDV, Viettinbank, Vietcombank) tại Thành phố Hà Nội và tỉnh Quảng Ninh. Sử dụng thẻ CCCD trong khám chữa bệnh 6.361 cơ sở khám chữa bệnh. Kết nối chính thức với 11 đơn vị bộ ngành và 14 địa phương…; CSDL quốc gia về Bảo hiểm quản lý thông tin của 27 triệu hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế, bao gồm thông tin của 98 triệu người dân; CSDL hộ tịch điện tử toàn quốc có khoảng 28 triệu dữ liệu đăng ký khai sinh, trong đó có trên 7 triệu trẻ em được cấp Số định danh cá nhân theo quy định, trên 6 triệu dữ liệu đăng ký kết hôn, trên 4 triệu dữ liệu đăng ký khai tử; CSDL quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp chứa thông tin đăng ký doanh nghiệp theo thời gian thực của hơn 01 triệu doanh nghiệp và đơn vị trực thuộc; tỷ lệ số hóa hồ sơ đăng ký doanh nghiệp đạt 100%...

Cung cấp dịch vụ công trực tuyến: Tỷ lệ dịch vụ công đủ kiều kiện được cung cấp trực tuyến mức độ 4 là 97,3%; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) phát sinh hồ sơ là 45,7%, gấp 1,6 lần so với cùng kỳ năm 2021; tỷ lệ hồ sơ xử lý trực tuyến là 36,9%, tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm 2021. Một số DVCTT phát huy hiệu quả rõ rệt phục vụ người dân, tiêu biểu như: Dịch vụ đăng ký dự thi tốt nghiệp trung học phổ thông. Dịch vụ đăng ký, cấp biển số mô tô, xe gắn máy. Dịch vụ cấp hộ chiếu phổ thông…

Tồn tại, hạn chế: Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu hai chiều từ hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương với các cơ sở dữ liệu quốc gia còn nhiều vướng mắc; Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia triển khai còn chậm; Việc cung cấp, sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ cao tuy có những chuyển biến tích cực tuy nhiên người dân chưa thấy thuận tiện, dễ dùng, chưa được khuyến khích khi tiếp cận, sử dụng dịch vụ công trực tuyến.

Về kinh tế số: tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP đến hết 6 tháng đầu năm ước tính là 10,41%. Tỷ trọng này năm 2021 ước tính là 9,6%. Mục tiêu đặt ra đến năm 2025 là 20%.

1/22 bộ, ngành, 16/63 địa phương đã ban hành kế hoạch triển khai Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; 23/63 địa phương đã ban hành kế hoạch hành động thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trong các cơ sở giáo dục, y tế; 28/63 địa phương đã ban hành kế hoạch hành động thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số; Số lượng doanh nghiệp công nghệ số ước đạt 67.300 doanh nghiệp, tăng gần 3.500 doanh nghiệp so với tháng 12/2021, đạt tỷ lệ 0,69 doanh nghiệp trên 1.000 dân.  Thanh toán không dùng tiền mặt tăng 76% về số lượng và 30,6% về giá trị so với cùng kỳ 2021. Thanh toán di động tăng 99,1% về số lượng và 86,1% về giá trị. Các nền tảng thanh toán số dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng số lượng người dùng thường xuyên bình quân hằng tháng. Trong 6 tháng đầu năm 2022, có thêm 3.378.742 hộ sản xuất nông nghiệp được hỗ trợ lên hoạt động các sàn thương mại điện tử Việt Nam Postmart và Vỏ sò, giá trị giao dịch đạt 194 tỷ đồng.

Tồn tại, hạn chế: Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa ban hành Kế hoạch hành động triển khai Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số; gặp nhiều lúng túng trong triển khai phát triển kinh tế số và xã hội số. Chưa có cơ chế thực sự hiệu quả để hỗ trợ nền tảng số Việt Nam.

Về xã hội số: So với cùng kỳ năm trước, hoạt động của người dân trên môi trường số đã ghi nhận sự tăng trưởng cả về số lượng người sử dụng và thời lượng sử dụng, đặc biệt ở các nền tảng số do Việt Nam sở hữu và phát triển. Số lượng lượt tải mới các ứng dụng di động đạt gần 200 triệu lượt (tính riêng tháng 6-2022), đưa Việt Nam xếp hạng thứ 7 toàn cầu về tổng số lượng lượt tải mới. 8 nền tảng số Việt Nam có số lượng người dùng thường xuyên hàng tháng đạt trên 10 triệu tăng 8,47% so với cùng kỳ năm trước. Số người dùng hằng tháng trên tất cả các nền tảng số di động Việt Nam đã tăng hơn 100 triệu lượt so với cùng kỳ 2021...

Tồn tại, hạn chế: Các nền tảng số xuyên biên giới đang chiếm thị phần đáng kể về số lượng người dùng thường xuyên ở hầu hết các ngành, lĩnh vực.Trạng thái bình thường mới ghi nhận sự sụt giảm về số lượng người dùng và thời lượng sử dụng với các nhóm nền tảng khác nhau. Người dân chưa thực sự quan tâm đến việc tự đảm bảo an toàn thông tin trên môi trường mạng.

Về đô thị thông minh: 35/63 địa phương đã ban hành Đề án, Kế hoạch phát triển đô thị thông minh và bước đầu cung cấp các dịch vụ, tiện ích. 20/63 địa phương đã ban hành Kiến trúc ICT phát triển đô thị thông minh. 44/63 địa phương đã triển khai Trung tâm giám sát, điều hành thông minh cấp tỉnh.

Tồn tại hạn chế: Một số địa phương triển khai đô thị thông minh nhưng thiếu tầm nhìn dài hạn, thiếu tính tổng thể, thiếu kiến trúc nhất quán. Chưa có sự tập trung vào những vấn đề căn cơ, những bài toán lớn của đô thị như quy hoạch, giao thông, môi trường, năng lượng, xử lý rác thải.

Báo cáo cũng nêu rõ một số khó khăn vướng mắc. Đó là: Hệ thống đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin của các bộ, ngành, địa phương chưa được kiện toàn. Các cán bộ, công chức, viên chức thiếu kiến thức, kỹ năng để thực hiện chuyển đổi số, đặc biệt là thiếu nguồn nhân lực chuyên nghiệp, chất lượng cao. Số lượng, chất lượng kỹ sư, cử nhân về công nghệ thông tin, chuyển đổi số còn rất hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu. Lực lượng lao động làm việc trong các ngành nghề khác nhau còn thiếu kỹ năng số.

Thiếu cơ chế giám sát triển khai chuyển đổi số, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ về chuyển đổi số đã được xác định tương đối rõ ràng trên quy mô quốc gia thông qua các chương trình, chiến lược quốc gia về chuyển đổi số. Tuy nhiên, vẫn thiếu cơ chế và công cụ theo dõi, giám sát, kiểm tra để bảo đảm việc triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch chuyển đổi số của các bộ, ngành, địa phương được đồng bộ, thông suốt, phù hợp với định hướng quốc gia và các cấp, bảo đảm đầu tư đúng mục tiêu, có hiệu quả...

Tại phiên họp, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã báo cáo Bộ chỉ số chuyển đổi số (DTI 2021) chỉ số đánh giá chuyển đổi số của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Theo đó điểm nổi bật kết quả đánh giá DTI 2021: so với năm 2020, giá trị DTI 2021 cấp bộ cung cấp dịch vụ công (DVC) tăng khoảng 15,4%. Giá trị DTI 2021 cấp bộ không cung cấp DVC giảm không đáng kể. Giá trị DTI 2021 cấp tỉnh có mức tăng đáng kể nhất, khoảng 32,7%. 12/89 bộ, tỉnh (6 bộ và 6 tỉnh) có giá trị DTI 2021 đạt từ 0,5 trở lên, chiếm 13,48%.

Bộ Tài chính duy trì vị trí đứng đầu về DTI của các bộ cung cấp DVC với giá trị 0,6321 tăng so với năm 2020 (0,4944). Trong đó 4 bộ, cơ quan ngang bộ không thực hiện đánh giá do đặc thù: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đứng đầu về DTI của các bộ không cung cấp DVC với giá trị 0,4736 tăng 66,29% so với năm 2020 (0,2848).

TP. Đà Nẵng lần thứ hai liên tiếp xếp vị trí thứ nhất về DTI cấp tỉnh với giá trị 0,6419. Top 10 tỉnh, thành phố đứng đầu về DTI 2021 gồm: TP. Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, TP.HCM, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Ninh Bình, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Bình Phước, Bắc Giang.

Giá trị 3 trụ cột DTI 2021 cấp tỉnh đều tăng: chỉ số Chính quyền số 0,4317, tăng 19,6%; chỉ số Kinh tế số 0,4098, tăng 59,6%; chỉ số Xã hội số 0,3989, tăng 37,6%. Kế thừa kết quả từ việc triển khai ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước giai đoạn trước; chỉ số Chính quyền số vẫn có giá trị cao nhất.

Cũng tại phiên họp, các đại biểu đã được nghe tham luận, trao đổi của lãnh đạo các Bộ, ban, ngành, địa phương và doanh nghiệp về công tác chuyển đổi số, chỉ ra những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện ở mỗi địa phương, đơn vị.

Thứ trưởng Bộ Công an Nguyễn Duy Ngọc phát biểu tại phiên họp

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Thanh Nghị phát biểu tại phiên họp

Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng phát biểu tại phiên họp

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc phát biểu tại phiên họp

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại phiên họp

Kết luận phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính ghi nhận, biểu dương quyết tâm, nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, các tổ chức và các cá nhân quyết liệt thực hiện chuyển đổi số thời gian qua, công tác chuyển đổi số đã tiến thêm những bước quan trọng, góp phần phục hồi nhanh và phát triển bền vững kinh tế - xã hội.

Cơ bản thống nhất với những đánh giá về kết quả đạt được, Thủ tướng cũng thẳng thắn chỉ ra nhiều tồn tại, hạn chế.

Theo đó, nhiều lãnh đạo các cấp chưa thực sự quan tâm, quyết liệt chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực cho chuyển đổi số. Ban chỉ đạo chuyển đổi số các bộ ngành chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số. Trong 27 nhiệm vụ cụ thể giao các bộ, ngành, địa phương tại Phiên họp thứ 2 của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số thì đến nay có 15 nhiệm vụ cơ bản hoàn thành, còn 12 cần tiếp tục hoàn thành. Việc đôn đốc xây dựng thể chế, chính sách để hoàn thiện môi trường pháp lý cho chuyển đổi số thì còn chậm. Hạ tầng số cần tiếp tục cải thiện mạnh mẽ hơn để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số; tốc độ mạng băng rộng cố định, di động tuy có tăng những vẫn ở mức trung bình khá của thế giới, chưa tạo bước đột phá về hạ tầng phục vụ chuyển đổi số quốc gia. Cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ cao tuy có chuyển biến tích cực về số lượng nhưng chất lượng và hiệu quả cần phải tiếp tục cải thiện nhiều hơn nữa. Người dân chưa thấy thuận tiện, dễ dùng, chưa được khuyến khích khi tiếp cận, sử dụng dịch vụ công trực tuyến và các nền tảng số. Tỉ lệ xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng chưa cao; còn một số dịch vụ công trực tuyến mang tính hình thức, chưa thực chất (người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến năm 2020 chỉ đạt 1,78%, năm 2021 đạt 9,51%; 7 tháng năm 2022 mới đạt gần 18%). An toàn, an ninh mạng nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức trong bối cảnh tội phạm công nghệ cao diễn biến ngày càng phức tạp. Nhân lực cho chuyển đổi số còn chưa đáp ứng được nhu cầu. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong cơ quan nhà nước phục vụ cho hoạt động chuyển đổi số. Đề nghị các bộ ban, ngành, địa phương phát triển nguồn nhân lực vững bền, cả số lượng và chất lượng...

Thủ tướng nêu rõ, phải ghi nhận những kết quả rất tích cực trong công tác chuyển đổi số thời gian qua, nhưng đây mới là kết quả bước đầu, chúng ta vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần giải quyết, nhiều việc phải làm và nỗ lực cố gắng, cần phải có quyết tâm, cần phải cao hơn nữa, cần phải mạnh mẽ hơn nữa, hành động quyết liệt, thiết thực, hiệu quả, thực hiện có trọng tâm, trọng điểm.

Người đứng đầu Chính phủ nhấn mạnh một số quan điểm, định hướng lớn. Theo đó, chuyển đổi số phải là công cụ quan trọng trong xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Phát huy tinh thần đoàn kết, chia sẻ, phát huy tối đa sức mạnh truyền thống quý báu của dân tộc ta càng khó khăn, thách thức thì càng phải đoàn kết. Tránh mọi tư duy “cát cứ thông tin, số liệu, dữ liệu”, tránh tư duy cục bộ, phải chia sẻ số liệu, phải cùng nhau phối hợp làm, không có cát cứ, không có cục bộ cơ quan, cục bộ cá nhân ở đây. Liên tục đổi mới, có tư duy đột phá và tầm nhìn chiến lược, phát huy tính chủ động, tính sáng tạo của mỗi cơ quan đơn vị và mỗi cá nhân trong việc chuyển đổi số; chuyển đổi số để người dân sử dụng dịch vụ công, tiện ích đã được hoàn thiện, nhanh hơn, hiệu quả hơn. Bên cạnh đó phải tuyên truyền, vận động, phải hướng dẫn, đào tạo nguồn nhân lực.

Thủ tướng cũng chỉ đạo: Huy động hiệu quả mọi nguồn lực tham gia chuyển đổi số, huy động nguồn lực tư, nguồn lực xã hội, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sức mạnh của người dân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Việc chuyển đổi số được triển khai đồng bộ, tổng thể trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, tránh tình trạng “trăm hoa đua nở”; đi nhanh nhưng chắc chắn, dễ làm trước, khó làm sau, đi từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp và đáp ứng các yêu cầu từng giai đoạn khác nhau, cần được thực hiện một cách thực chất để tránh đầu tư dàn trải, lãng phí, không cầu toàn, không nóng vội.Phải nghĩ thật, nói thật, làm thật, có hiệu quả thật, người dân, doanh nghiệp được thụ hưởng thật; nói phải đi đôi với làm, "không đánh trống bỏ dùi". Không để hiện tượng dịch vụ công trực tuyến thì nhiều, nhưng người dân sử dụng ít. Các Bộ, các ngành phải phối hợp với nhau, chia sẻ thông tin dùng chung, phải có cơ chế để khai thác có hiệu quả. Bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và doanh nghiệp; coi trọng công tác truyền thông, hướng dẫn, tạo sự ủng hộ, đồng thuận của người dân và cộng đồng doanh nghiệp.

Về nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới, Thủ tướng đề nghị các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Ban chỉ đạo chuyển đổi số của các bộ, ngành, địa phương khẩn trương, quyết liệt tổ chức triển khai, truyền cảm hứng, tạo ra xu thế, tạo ra nguồn lực tổng thể. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính. Các địa phương cần kết nối dữ liệu với nhau, các bộ, các ngành cùng với các địa phương chia sẻ thông tin. Quyết liệt hơn nữa trong chỉ đạo, lãnh đạo, làm sao để người dân được thụ hưởng các dịch vụ chuyển đổi số. Việc quản lý nhà nước theo chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Đẩy mạnh kết nối các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành với Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, hình thành Hệ thống thông tin phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ dựa trên dữ liệu theo thời gian thực, bảo đảm đồng bộ, nhất quán, chính xác.Rà soát, đánh giá an toàn thông tin, an ninh mạng tránh lộ, lọt thông tin, các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, khẩn trương khắc phục những hạn chế bất cập về lỗ hổng bảo mật, lộ lọt thông tin và bảo vệ dữ liệu cá nhân. Các địa phương lựa chọn và công bố các nền tảng số mà địa phương mình tập trung thúc đẩy trong năm 2022 để giải quyết các vấn đề của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Triển khai hoạt động Tổ công nghệ số cộng đồng hiệu quả hơn, tích cực hơn, để hỗ trợ, hướng dẫn người dân sử dụng các nền tảng số nhiều hơn. Rà soát, đăng ký, phân bổ nguồn lực cho việc phát triển và triển khai các nền tảng số cho năm 2023. Bên cạnh nguồn lực con người phải có nguồn lực về tài chính, cơ sở vật chất. Tăng cường hợp tác quốc tế trong chuyển đổi số. Khẩn trương ban hành các chương trình, kế hoạch, đề án, nghị quyết/chỉ thị/văn bản về chuyển đổi số theo đúng yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Tăng cường công tác tuyên truyền về lợi ích của chuyển đổi số đến người dân, doanh nghiệp.

Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hoàng Đạo Cương chủ trì tại điểm cầu Bộ VHTTDL

Bộ Thông tin và Truyền thông tổng hợp việc triển khai các nhiệm vụ, kế hoạch chuyển đổi số quốc gia, các ý kiến chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo, thường xuyên đôn đốc, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá, thực hiện các nhiệm vụ xác định định lượng, nhiệm vụ có tính chất định tính, trong đó nhiệm vụ phải định lượng được, phải luôn cập nhật kịp thời tiến độ, kết quả thực hiện trên nền tảng số. Khẩn trương phối hợp với các bộ, ngành liên quan hoàn thiện hồ sơ dự án Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) để trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XV. Chủ trì xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tăng cường, nâng cao năng lực tham mưu và tổ chức thực thi chuyển đổi số từ Trung ương đến địa phương. Hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương triển khai Nghị định số 42/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến của cơ quan Nhà nước trên môi trường mạng, bảo đảm thống nhất cách hiểu về dịch vụ công trực tuyến và lộ trình chuyển đổi cho phù hợp với thực tiễn...

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương tiếp tục tổ chức triển khai hiệu quả Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Đề án 06). Thúc đẩy hoàn thiện các nghị định liên quan đến quản lý điện tử.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì tổng hợp, tham mưu bố trí vốn đầu tư phát triển cho triển khai chuyển đổi số năm 2023 và đến năm 2025; phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông trong việc triển khai hệ thống phục vụ theo dõi, kiểm tra thực hiện chương trình, kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin, đảm bảo đầu tư tập trung, đúng mục tiêu, có hiệu quả.

Bộ Tài chính chủ trì tổng hợp, tham mưu bố trí kinh phí sự nghiệp từ ngân sách Nhà nước cho triển khai chuyển đổi số năm 2023; tiếp tục thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành thuế, hải quan, nhất là thu thuế trong dịch vụ ăn uống.

Bộ Giáo dục và Đào tạo trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án triển khai thí điểm mô hình giáo dục đại học số và lựa chọn thí điểm mô hình tại 5 trường đại học trước ngày 30-8-2022. Nghiên cứu thúc đẩy thành lập khoa mới, chuyên ngành đào tạo mới hoặc cập nhật, bổ sung vào chương trình đào tạo kiến thức, kỹ năng theo hàm lượng phù hợp tại các trường đại học, cơ sở giáo dục.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội triển khai các nhiệm vụ giải pháp được giao từ nay đến cuối năm và những năm tiếp theo. Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Công an thúc đẩy việc triển khai chi trả qua tài khoản cho các đối tượng được hưởng trợ cấp từ ngân sách Nhà nước, trong đó bao gồm người có công, người nghèo, người khuyết tật, đối tượng yếu thế, người lao động.

Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng Đề án chuyển đổi số ngành tiêu chuẩn đo lường chất lượng phù hợp với chương trình chuyển đổi số quốc gia và chiến lược phát triển Chính phủ điện tử; trên cơ sở mục tiêu, phạm vi và nội dung của Đề án, trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Bộ Tài nguyên và Môi trường khẩn trương hoàn thành Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, sớm cung cấp các dịch vụ công trực tuyến liên quan đến lĩnh vực đất đai phục vụ người dân doanh nghiệp.

Bộ Nội vụ khẩn trương nghiên cứu, chế độ, chính sách cho đội ngũ làm nhiệm vụ chuyển đổi số, trong đó có vận dụng Nghị định 140/2017/NĐ-CP về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ; đẩy mạnh cải cách hành chính thông qua chuyển đổi số.

Các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp CNTT phải tham gia tích cực vào chuyển đổi số, góp phần làm cho người dân và doanh nghệp sử dụng công nghệ, các dịch vụ của doanh nghiệp.

Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành để góp phần xây dựng Chính phủ số, liên kết, hướng dẫn các địa phương, cùng với Bộ Thông tin và Truyền thông đưa ra các cổng dịch vụ công trực tuyến. 

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp tục rà soát lại, tiếp tục nâng cao quy trình chuyển đổi số. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay cần số liệu tính toán, đánh giá để lãnh đạo, chỉ đạo chính sách tiền tệ, cần phải có số liệu chính xác, cập nhật thông tin để đưa ra chính sách cho phù hợp.

Bài, ảnh: THANH DANH

 

;