NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA SỰ NGHIỆP NGUYỄN CÔNG TRỨ

Nhận xét về sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, ông là một trí thức lớn, nhà chính trị, kinh tế, quân sự và là nhà thơ của dân tộc. Công lao của ông đã được nhân dân ngàn đời ca tụng, mang lại giá trị cho cả xã hội phong kiến đương thời và đối với giai đoạn hiện nay. Tư tưởng và các tác phẩm ông để lại có vai trò vô cùng to lớn, là bài học kinh nghiệm sâu sắc trong công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta.

 

 
 
 
         Nguyễn Công Trứ không chỉ là một nhà kinh tế, nhà chính trị, nhà thơ, mà còn là một nhà quân sự tài ba. Sự nghiệp của ông được thể hiện trên nhiều phương diện: tư tưởng lấy dân làm gốc; dám đề xuất và giải quyết vấn đề di dân, lập ấp; đề xuất rút lui trong chiến lược. Ông còn là người mở mang, đưa những điều mới mẻ vào trong văn học với thể hát nói bình dân và được coi là ông tổ của ca trù. Bằng chính cuộc đời của mình, ông đã tạo nên một phong cách sống phóng khoáng, tự do, tự tại, được coi là điển hình của mẫu nhà nho tài tử. Với những thành tựu và công trạng đã đạt được trong sự nghiệp của mình, Nguyễn Công Trứ được nhân dân suy tôn là anh hùng hào kiệt, được triều đình phong tước hiệu là Uy viễn tướng công.

Sự nghiệp về chính trị

Gần 30 năm làm quan trong triều, giữ nhiều chức vụ khác nhau, sự nghiệp của ông đầy gian khổ với cấp bậc lúc thăng lúc giáng. Song dù ở cương vị nào, là lính thú, cấp quan thấp nhất hay hàng nhị phẩm, thì Nguyễn Công Trứ vẫn hoàn thành tốt công việc của mình. Ông vẫn hết lòng phụng sự triều đình, yêu thương dân như con, đem hết tài lực ra trị quốc, an dân.

Về ý thức, ông luôn đi sâu vào lòng dân chúng, lắng nghe tâm tư nguyện vọng, cảm thông sâu sắc và nói lên những điều mà dân không dám nói. Ông luôn ý thức được trọng trách làm quan của mình, là phải thấu hiểu, chăm lo và giải quyết những lo âu của dân chúng, để dân có thể an cư lạc nghiệp. Đối với thôn xã, ông đã đưa ra 5 quy ước, đó là: lập trường học, lập kho tiết kiệm, tổ chức hành chính xã thôn, phòng vệ an ninh, tinh thần kỷ luật. Quy ước này hướng nhân dân vào trong khuôn khổ, khiến mọi người tự có ý thức đối với mình hơn trong làng xã, biết thương yêu và bảo vệ nhau.

Nguyễn Công Trứ đã đề nghị lên triều đình và vua nhà Nguyễn rất nhiều vấn đề, tất cả đều là để phục vụ triều đình và tốt cho nhân dân. Chẳng hạn, ngay từ khi còn là một nho sinh, ông đã dâng lên vua Gia Long Thái bình thập sách. Khi làm quan, với kinh nghiệm và ý chí sắc bén của bản thân, ông đã dâng lên nhà vua 5 bản điều trần. Nó đã chứng tỏ tinh thần cùng với nhãn quan sâu rộng của ông. Nội dung cơ bản trong 5 bản điều trần với mục tiêu cải cách xã thôn là nhằm nâng cao dân trí, cải thiện dân sinh, và tăng cường dân vệ. Với dân trí, Nguyễn Công Trứ đã đặt ra vấn đề là phải giáo dục căn bản, giáo hóa người dân; với dân sinh là các vấn đề về hành chính, nhân sự, giao thông; với dân vệ là an ninh và khuyến trừng. Không chỉ đề nghị lên triều đình, ông còn trực tiếp hướng dẫn dân chúng làm và ra sức thực hiện mục tiêu của mình.

Về hành động, với Nguyễn Công Trứ, tư duy và hành động luôn phải thống nhất, biết phải đi đôi với làm, đã nói được là phải làm được. Bằng chứng là các chiến công của ông được ghi nhận trên khắp chiến trường. Về kinh tế, ông cũng đã giúp nhân dân và triều đình thu được những thắng lợi to lớn, đó là khai khẩn, mở mang thêm nhiều vùng đất mới, cải cách đồn điền.

cuộc đời làm quan lúc thăng lúc giáng nhưng ông không lấy đó làm buồn, mà vẫn vui vẻ. Dù ở cương vị nào, Nguyễn Công Trứ cũng làm tốt nhiệm vụ của mình, bởi ông có một tư tưởng chính trị kiên định, vững vàng, hết lòng phụng sự cho triều đình, yêu thương con dân. Đó là tư tưởng thấm đẫm lý tưởng của người quân tử trong Nho giáo. Ông xứng đáng với tước hiệu Uy viễn tướng công của triều đình, và được nhân dân tôn làm anh hùng hào kiệt.         

Sự nghiệp về kinh tế

Bên cạnh tư tưởng về chính trị, Nguyễn Công Trứ còn có những tư tưởng và chính sách mới về kinh tế. Chính những tư tưởng này đã giúp ông trở thành nhà kinh tế đại tài, góp phần tạo nên sự nghiệp kinh bang tế thế. Sự nghiệp về kinh tế của ông như một kỳ tích, thu được nhiều thắng lợi to lớn. Nó chứng tỏ sức mạnh, ý chí cũng như nghị lực phi thường, nhãn quan sắc bén của ông. Như chúng ta đã biết, khi bàn về vấn đề quân sự của ông thì có nhiều ý kiến được đưa ra. Việc ông dẹp yên cuộc khởi nghĩa nông dân, có người cho rằng ông là người chống lại lợi ích của dân, đi ngược với quần chúng. Song, đứng trên sự nghiệp về kinh tế, thì có lẽ không ai có thể phủ nhận được công lao và đóng góp to lớn của ông đối với triều đình, dân chúng. Đóng góp đó vẫn còn nguyên giá trị đến tận ngày nay.

Sau khi dẹp giặc xong, Nguyễn Công Trứ chăm lo để giúp dân giàu mạnh. Ông đã dâng sớ xin việc khẩn hoang: “khai khẩn hoang điền để dân nghèo có nghề làm ăn" (1). Năm 1829, ông được cử làm Doanh điền sứ. Ông đã thể hiện một tư tưởng về kinh tế rất mới, đó là nhà nước (triều đình phong kiến) và nhân dân cùng làm. Nhà nước cung cấp tiền, quân lương, binh lính…, còn nhân dân bỏ công sức lao động của mình để tiến hành khẩn hoang. Bên cạnh đó, ông còn tận dụng sức lao động của người nghèo khổ không có đất canh tác và những người trước tham gia vào nghĩa quân bị bại trận vào việc khẩn hoang. Tư tưởng kinh tế về quai đê, lấn biển đã được ông tiến hành, trên hầu khắp các vùng duyên hải.

Ông trở thành người có công đối với hàng vạn hộ nông dân trên các vùng đất ông lãnh đạo khẩn hoang. Ông đã sáng lập ra huyện Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Là người thông thuộc, am hiểu Nho học từ rất sớm, Nguyễn Công Trứ luôn học tập và làm theo đạo trị nước của Nho học. Ông cho rằng muốn lòng dân được an, thì phải làm cho dân no đủ, làm ruộng để canh tác là yếu tố quyết định tới cuộc sống của nhân dân, vì tư tưởng dĩ nông vi bản của Nho học đã ăn sâu vào tiềm thức của ông.

Đi đến đâu ông cũng thiết lập hệ thống dẫn thủy nhập điền, đào sông đắp đập, mở đường. “Cứ cách một quãng thì đào một con sông hay cái ngòi thẳng tuột từ đầu đến cuối; dọc trên mỗi con sông lại đắp một con đường, dân - sự cày cấy vãng lai, muốn đi đò thì có sông, muốn đi bộ thì có đường" (2). Khai khẩn xong, ông tự phân điền, cải cách canh tác. Ông lại vẽ địa đồ, đào sông đắp đường và chia khu vực theo đúng hoàn cảnh địa lý. Ngoài ra, ông còn xin triều đình chu cấp lương thực, tiền bạc, trâu bò, cùng với những dụng cụ cày bừa cho người nông dân

Những thắng lợi trong lĩnh vực kinh tế của ông đã đem lại cuộc sống ấm no cho hàng ngàn người nông dân. Người dân ghi nhận công lao, ngàn đời nhớ ơn khai lập và thờ phụng ngay từ khi ông còn sống cho đến tận ngày nay. Các nhà nghiên cứu, cùng các địa phương thường tổ chức các cuộc hội thảo luận bàn công lao của Nguyễn Công Trứ như những lời tri ân sâu sắc nhất tới vị Uy Viễn tướng công, để ngàn đời sau còn lưu giữ.

Sự nghiệp về quân sự

Nguyễn Công Trứ không chỉ giỏi văn, mà còn giỏi cả võ. Ngay từ khi còn là một đứa trẻ, ông đã từng đọc trộm binh thư và binh pháp của cha mình. Tương truyền, cha ông giấu những sách binh thư, binh pháp xuống tận đáy rương, vậy mà ông vẫn tìm ra để đọc trộm. Nguyễn Công Trứ nghĩ rằng, trai tài thì phải tài toàn diện, ra tướng võ, vào tướng văn, chứ không thể chỉ sống bằng vài câu thơ, câu phú. Trong bài Vịnh văn võ, ông viết: Văn dìu cánh phượng yên trăm họ/ Võ thét oai hùm dẹp bốn phương / Gặp hội thái bình văn trước võ/ Võ đâu dám sách khách văn chương. Với ông, văn và võ đều quan trọng, chẳng qua nó được vận dụng trong thời nào. Tư tưởng này đã được chứng minh bằng chính cuộc đời của ông.

Trong sự nghiệp làm quan của mình, ông đã từng giữ chức Bộ binh Thượng thư và thống lĩnh quân lính thông qua 6 cuộc chinh an (6 chiến thắng). Năm 1827, ông dẹp yên cuộc khởi nghĩa nông dân ở Nam Định do Phan Bá Vành và đồng bọn nổi dậy chống triều đình. Năm 1828, ông dẹp yên cuộc nổi loạn của Lê Duy Lương ở Thanh Hóa. Năm 1832 đến 1835, ông dẹp yên giặc Nùng Văn Vân ở phía bắc. Năm 1838, ông dẹp yên giặc bể Trung Quốc vào quấy nhiễu vùng Quảng Yên, đánh đuổi giặc Xiêm

Trong các hoạt động quân sự của Nguyễn Công Trứ, phải kể đến một loại nghệ thuật mà đến nay chúng ta vẫn sử dụng. Đó là nghệ thuật thủ dụ nhân dân, nay gọi là nghệ thuật tuyên truyền. Tư tưởng này được thể hiện chủ đạo trong bài thơ Gánh gạo đưa chồng. Ông đã khích lệ quân sĩ nơi chiến trường, trấn an tâm lý họ bằng việc mượn hình ảnh người vợ tảo tần sớm khuya, thay chồng nuôi con. Để cho những người lính có thể yên tâm làm nhiệm vụ: Đường tên đạn xin chàng bảo trọng/ Thiếp lui về nuôi cái cùng con. Có thể gọi đây là “nghệ thuật kích động lòng người" (3) mà Nguyễn Công Trứ đã sử dụng, nhằm đề cao tinh thần dân tộc, tình nghĩa vợ chồng, rung động lòng dân, cả những người ở hậu phương và những người nơi chiến trận.

Nói về sự am hiểu binh pháp thì “tài bày binh bố trận của tướng công còn vượt bực” (4). Nguyễn Công Trứ có tài bày binh và có khả năng thắng trên mọi trận đồ. Ông thắng giặc Lê Duy Lương trên địa hình trung du, có núi rừng hiểm trở, đồng ruộng mênh mông; thắng giặc Phan Bá Vành trên địa hình biển ngòi, bãi hoang có lau sậy để ẩn nấp; thắng Nông Văn Vân trên địa hình đồi núi hiểm trở, khó quan sát; thắng trận ở Trấn Tây bằng một thế trận mới là lục quân dã chiến. Bên cạnh tài binh thư, bày binh bố trận, ông còn có tinh thần cảnh giác cao, thể hiện một nghệ thuật quân sự tài ba của mình.

Không chỉ am hiểu binh pháp, ông còn luôn thể hiện mình là vị quan liêm, có sự khoan hồng rất lớn đối với người đã lầm lỡ phạm tội. Minh Mệnh năm thứ 13, ông có dâng sớ lên vua tâu: “Xin cho gia hạn về đầu thú, bất luận yếu phạm hay tùng phạm, giết người hay làm người bị thương, đều cho bắt về đầu thú, để ban bố rộng rãi ân đức hiếu sinh" (5). Với tư tưởng này, những kẻ phạm tội không chỉ sợ mà còn rất nể trọng ông, vì ông đã cho họ cơ hội nhận lấy sự khoan hồng cũng như ân đức của luật pháp.

Trong suốt cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Công Trứ không chỉ giúp an dân về đời sống kinh tế, mà còn giúp triều đình, dân chúng giữ yên bờ cõi, dẹp giặc và bọn loạn đảng. Ông trở thành vị tướng tài danh trải qua bốn đời vua triều Nguyễn. Tinh thần chiến đấu, thượng võ của ông được thể hiện đến tận năm 81 tuổi. Dù đã nghỉ hưu nhưng khi giặc Pháp sang xâm lược vào năm 1858, ông vẫn xin được cầm quân diệt giặc. Tuy nhiên, do sức khỏe yếu nên ông đã mất ở tuổi 81 tại quê nhà.

Sự nghiệp về văn chương

Nguyễn Công Trứ nhà một nhà nho tiêu biểu trong Nho giáo Việt Nam. Ông luôn tâm niệm đã là đấng nam nhi thì phải có danh phận trong trời đất. Ảnh hưởng của Nho giáo trong tư tưởng của ông hết sức sâu sắc. Ông cũng theo đúng hình ảnh của những kẻ sĩ thời xưa, đó là chú trọng việc lập công, lập đức và lập ngôn. Sự nghiệp văn chương, thơ phú của ông cũng rất độc đáo.

Thơ Nguyễn Công Trứ là thơ ký thác, thi dĩ ngôn chí. Ông làm thơ để gửi gắm tâm sự và bày tỏ ý chí của mình. Thơ gắn với cuộc đời của ông, với những vui buồn trong cuộc sống. Thơ của ông rất mộc mạc, chân thành, thoải mái và phóng túng. Thơ văn của ông không được chép thành tập, nhưng theo các nhà nghiên cứu văn học thì có khoảng 1000 bài, và hiện chỉ còn lưu lại khoảng 120 bài. Thơ của ông chủ yếu là chữ Hán và chữ Nôm. Ông cũng là người có công đưa thể hát mái trong ca trù thành một thể thơ thuần Việt. Từ những bài hát ả đào, Nguyễn Công Trứ đã mở rộng và nâng lên thành thể thơ phóng túng.

Thơ ca của ông, được quy chủ yếu về bốn đề tài: tự vịnh, lý tưởng, đạo lý, tình cảm. Tuy nhiên, thơ ông không theo một khuôn mẫu sẵn có, mà như gửi gắm tâm hồn mình, gửi gắm chí nam nhi, nợ tang bồng, với lý tưởng và khát vọng lớn lao nhưng cũng đầy thực tế. Lê Thước nhận xét: “Ta đọc đến lời văn cụ, tự nhiên sinh lòng hăng hái, muốn đi, muốn chạy, muốn đem thân gánh vác việc đời, để giúp đời cho khỏi những nỗi bi ai khốn khổ. Ấy cũng bởi cụ đối với đời có cái quan niệm như thế, cho nên cụ đã thổ lộ ra một áng văn chương" (6). Thơ của ông cũng chứa đựng những tình cảm trong sáng, khoan dung nhưng hết sức phóng khoáng, sống thật với đúng tâm hồn của mình, không khoa trương, câu nệ. Nhìn chung, thơ văn của Nguyễn Công Trứ giản dị như chính cuộc đời của ông vậy. Nó không cầu kỳ, không thái quá mà giản dị, chân thành, phóng khoáng, tự do tự tại, hồn nhiên với những áng thơ hùng tráng, không phù phiếm giả tạo, mà chân thực sâu sắc.

Nghiên cứu và tìm hiểu về sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ, có thể thấy rằng, ông là một nhà nho có sự nghiệp lẫy lừng bậc nhất ở triều Nguyễn, giai đoạn nửa đầu TK XIX. Sự nghiệp của ông, không bị bó hẹp trong một lĩnh vực, mà được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Và dù ở lĩnh vực nào thì ông cũng hoàn thành tốt nhiệm vụ, vai trò của mình. Tất cả thành tựu ông đạt được trong suốt giai đoạn sinh thời đã chứng tỏ tài năng và cốt cách của một nho sĩ, một người quân tử trong xã hội phong kiến. Sự nghiệp của Uy viễn tướng công, không chỉ có ý nghĩa đối với xã hội đương thời, mà đối với ngày nay, nó còn để lại những giá trị, bài học kinh nghiệm vô cùng sâu sắc. Tư tưởng lấy dân làm gốc, nghệ thuật tuyên truyền, cảnh giác trong quân sự, tư tưởng khai hoang lập ấp, chăm lo đời sống người dân trong kinh tế, lối tư duy phóng khoáng, đa dạng trong văn học… và còn rất nhiều những giá trị khác, đáng để thế hệ trẻ ngày nay tìm tòi và học hỏi, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.

_______________

1, 2, 6. Lê Thước, Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, Nxb Lê Văn Tân, Hà Nội, 1928.

3, 4. Doãn Quốc Sỹ - Việt Tử, Khảo luận về Nguyễn Công Trứ, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn, 1960.

5. Quốc sử quán triều Nguyễn, Minh Mệnh chính yếu, tập II, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1994.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 379, tháng 1-2016

Tác giả : ĐỖ VIỆT HÀ

;