Nhận diện giá trị đích thực của gốm cổ Việt Nam

Ngày 30-8, tại Bảo tàng Gốm Thời dựng nước ở TP.HCM đã diễn ra tọa đàm khoa học với chủ đề: Nhận diện giá trị gốm Phùng Nguyên, Hoa Lộc, Đền Đồi thời dựng nước nhằm góp phần nghiên cứu, bảo tồn di sản và phát huy giá trị gốm Việt giai đoạn buổi đầu dựng nước.

Đây là hoạt động chuyên sâu đầu tiên của Bảo tàng Gốm Thời dựng nước kể từ khi được thành lập (26-6-2025). Tọa đàm quy tụ nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia đầu ngành, cơ quan quản lý di sản, cùng đại diện các viện nghiên cứu, bảo tàng, trường đại học, đơn vị giám định cổ vật trên cả nước.

Tọa đàm tập trung về gốm văn hóa Phùng Nguyên (Phú Thọ), Hoa Lộc (Thanh Hóa) và Đền Đồi (Nghệ An). Đây được xem là những điểm khởi đầu của thời đại đồng thau - buổi bình minh của lịch sử dựng nước. Gốm cổ Việt Nam không chỉ là những vật dụng sinh hoạt hằng ngày, mà còn là chứng nhân lịch sử. Trên mỗi chiếc bát, chiếc bình, chiếc thố là những dấu vết của thời gian, những nét khắc vạch hoa văn đã kể lại câu chuyện về trình độ kỹ thuật, về đời sống tinh thần và tín ngưỡng của cư dân cách nay hàng nghìn năm. Nhận diện giá trị gốm Phùng Nguyên, Hoa Lộc, Đền Đồi không chỉ giúp khẳng định một giai đoạn quan trọng trong tiến trình dựng nước, mà còn khơi gợi niềm tự hào về bản sắc văn hóa Việt Nam.

Quang cảnh buổi tọa đàm

Gốm Phùng Nguyên - Đỉnh cao mỹ thuật thời dựng nước

Trong dòng chảy khảo cổ học Việt Nam, văn hóa Phùng Nguyên được coi là một cột mốc lớn. Hình thành cách nay khoảng 4.000 năm, phân bố chủ yếu ở lưu vực sông Hồng, văn hóa Phùng Nguyên đã để lại một kho tàng hiện vật phong phú, trong đó nổi bật là đồ gốm. Những chiếc bát bồng, thố, bình miệng loe, nồi có vai, vò hình cầu… đã làm nên diện mạo đặc trưng cho một nền văn hóa rực rỡ.

Điểm đáng chú ý nhất ở gốm Phùng Nguyên chính là hoa văn trang trí. Các họa tiết hình học như chữ S, chữ C, tam giác đối xứng, vòng tròn đồng tâm, dải chấm mịn… được khắc vạch tỉ mỉ, công phu, thể hiện bàn tay tài hoa của người thợ gốm. TS Bùi Thị Thu Phương trong tham luận tại tọa đàm khẳng định: “Hoa văn trang trí trên đồ gốm Phùng Nguyên mãi là đỉnh cao trong kỹ thuật và thủ pháp trang trí hoa văn trên đồ gốm thời dựng nước, đồng thời là tiền đề quan trọng cho sự nảy sinh mỹ thuật trang trí đồ đồng Đông Sơn sau này”. Nhận định này càng làm nổi bật vai trò của gốm Phùng Nguyên như một mắt xích không thể thiếu trong tiến trình nghệ thuật cổ đại Việt Nam.

Không chỉ dừng lại ở tính thẩm mỹ, hoa văn trên gốm Phùng Nguyên còn mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Những đường khắc chữ S có thể gợi nhắc đến hình tượng sóng nước, biểu trưng cho sự tuần hoàn, sinh sôi; vòng tròn đồng tâm phản ánh quan niệm vũ trụ quan của người xưa; trong khi các tam giác đối xứng có thể là ẩn dụ về núi non hoặc phồn thực. Từ những chi tiết nhỏ bé ấy, các nhà khảo cổ đã phần nào giải mã được cách cư dân Phùng Nguyên nhìn nhận về thế giới và về chính mình.

Kỹ thuật chế tác gốm thời kỳ này cũng đạt đến trình độ đáng nể. Người thợ đã biết chọn đất sét mịn, pha cát theo tỉ lệ hợp lý, miết láng bề mặt, nung ở nhiệt độ cao để tạo ra sản phẩm bền chắc. Thậm chí, trên một số hiện vật, cư dân Phùng Nguyên còn phủ bột trắng vào rãnh hoa văn để tạo độ tương phản, cho thấy tư duy thẩm mỹ tinh tế và sự sáng tạo vượt trội.

Một số hiện vật gốm Phùng Nguyên trong Bảo tàng Gốm Thời dựng nước

Gốm Hoa Lộc - Dấu ấn cư dân ven biển

Nếu gốm Phùng Nguyên được coi là tinh hoa của đồng bằng Bắc Bộ, thì gốm Hoa Lộc lại phản ánh sắc thái riêng biệt của cư dân ven biển Thanh Hóa, cách nay khoảng 3.500 năm. Gốm Hoa Lộc để lại nhiều hiện vật độc đáo: bát miệng tứ giác, hộp gốm hình “nghiên mực”, bình khum miệng, con dấu đất nung với hoa văn hình học. Đặc biệt, hoa văn in mép vỏ sò là dấu ấn không thể lẫn với bất kỳ nền gốm nào khác.

PGS, TS Nguyễn Khắc Sử  nhấn mạnh: “Sự xuất hiện phổ biến của hoa văn in mép sò trên gốm Hoa Lộc không chỉ phản ánh môi trường sinh sống đặc trưng của cư dân ven biển, mà còn cho thấy sự giao lưu văn hóa rộng rãi với các cộng đồng đồng đại như Hạ Long, Bàu Tró, Xóm Cồn hay Sa Huỳnh”. Điều này cho thấy cư dân Hoa Lộc không khép kín, mà trái lại, họ đã mở rộng giao lưu với nhiều vùng khác, đem yếu tố biển cả in dấu trong từng sản phẩm gốm.

Không chỉ có hoa văn độc đáo, gốm Hoa Lộc còn mang giá trị biểu tượng cao. Những chiếc bát bồng, mâm bồng xuất hiện nhiều trong các di chỉ, phản ánh đời sống tín ngưỡng, nơi người xưa gửi gắm niềm tin vào sự phồn thịnh và sung túc. Có thể thấy, với Hoa Lộc, gốm không chỉ là vật dụng phục vụ sinh hoạt hằng ngày mà còn gắn bó mật thiết với đời sống tâm linh.

Gốm Đền Đồi - Trung tâm giao thoa văn hóa

Đi xa hơn về phía Nam, đến vùng Nghệ An - Hà Tĩnh, văn hóa Đền Đồi lại mở ra một diện mạo khác. Gốm Đền Đồi được chia thành ba nhóm chính: gốm đỏ thô, gốm xám thô và gốm mịn, với nhiều loại hình phong phú như vò, bình, bát bồng, mâm bồng, đồ đun nấu.

Theo PGS, TS Tống Trung Tín- Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam, Đền Đồi có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định diện mạo văn hóa Tiền Đông Sơn, phản ánh sự phát triển liên tục và giao lưu mạnh mẽ giữa các khu vực, đặc biệt là ba lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả. Nhận định này đã đặt Đền Đồi vào vị trí then chốt trong bức tranh khảo cổ học Việt Nam. Đây chính là “cầu nối” gắn kết các vùng văn hóa, tạo nên sự đa dạng và thống nhất của cư dân Lạc Việt thời kỳ tiền Đông Sơn.

Gốm Đền Đồi vừa giữ được những yếu tố truyền thống của Thạch Lạc, vừa thể hiện những bước tiến mới trong kỹ thuật. Điều này phản ánh một quá trình phát triển liên tục, không ngừng đổi mới của cư dân khu vực Bắc Trung Bộ. Nhìn vào Đền Đồi, ta thấy rõ vai trò trung tâm giao thoa văn hóa, nơi hội tụ và lan tỏa những giá trị gốm Việt cổ.

Diễn viên Chi Bảo - Giám đốc Bảo tàng Gốm Thời dựng nước trả lời phỏng vấn của báo chí

Ý nghĩa khoa học và công tác bảo tồn

Tọa đàm không chỉ dừng lại ở việc mô tả và phân tích, mà còn hướng đến thảo luận sâu hơn về giá trị lịch sử - văn hóa của ba nền gốm. Đây chính là tiền đề cho văn hóa Đông Sơn - đỉnh cao của nền văn minh kim khí Việt cổ. GS Nguyễn Văn Kim- Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia, khẳng định: “Đồ gốm cùng với nghề làm gốm vừa là chủ lực, vừa là động lực, vừa là nền tảng phát triển của thời tiền - sơ Sử Việt Nam, góp phần giúp cư dân Lạc Việt phát triển kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, dựng nước và giữ nước”.

Bên cạnh việc nghiên cứu, vấn đề bảo tồn gốm cổ cũng được đặt ra như một nhiệm vụ cấp bách. Nhiều hiện vật gốm đang xuống cấp do tác động của khí hậu nhiệt đới ẩm, do môi trường và sự thiếu hụt nhân lực nghiên cứu. Nguy cơ hư hại hoặc thất thoát di sản là hiện hữu nếu không có giải pháp đồng bộ. Theo các chuyên gia, cần triển khai chiến lược toàn diện: đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ bảo tồn tiên tiến; đào tạo nhân lực chuyên sâu; hoàn thiện khung pháp lý kiểm soát hoạt động bảo vệ di sản; mở rộng hợp tác quốc tế để tiếp cận tri thức và nguồn lực mới.

Song song với bảo tồn, việc phát huy giá trị di sản phải được chú trọng thông qua các hình thức như trưng bày chuyên đề, số hóa hiện vật, phát triển sản phẩm giáo dục - du lịch - công nghiệp văn hóa từ gốm cổ. “Bảo tồn và phát huy gốm thời dựng nước không chỉ là nhiệm vụ của ngành Bảo tàng, mà còn là trách nhiệm xã hội trong việc gìn giữ ký ức văn hóa dân tộc, tạo nền tảng cho phát triển bền vững”- TS Hoàng Anh Tuấn - Giám đốc Bảo tàng Lịch sử TP.HCM nhấn mạnh.

Ông Phạm Định Phong - Phó Cục trưởng Cục Di sản văn hóa (Bộ VHTTDL) đánh giá, tọa đàm có chất lượng chuyên môn cao, đặc biệt khi liên kết giữa nghiên cứu học thuật với hiện vật đang được lưu giữ tại bảo tàng. Bảo tàng Gốm Thời dựng nước là bảo tàng ngoài công lập duy nhất hiện nay bảo quản và trưng bày hơn 1.000 hiện vật gốm trải dài từ văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn - những nền văn hóa tiêu biểu của kỷ nguyên dựng nước đầu tiên.

Bảo tàng Gốm Thời dựng nước đã và đang triển khai hoạt động sưu tầm, số hóa, trưng bày kết hợp với giáo dục di sản và du lịch văn hóa. Giám đốc Bảo tàng - diễn viên Chi Bảo bày tỏ mong muốn Bảo tàng Gốm Thời dựng nước sớm trở thành một không gian văn hóa di sản, nơi công chúng - đặc biệt là giới trẻ có thể cảm nhận rõ giá trị và niềm tự hào dân tộc.

XUÂN HƯỚNG - ĐƠN DƯƠNG

;