“Nghi lễ và Trò chơi kéo co” của Việt Nam, Campuchia, Hàn Quốc và Philippines được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào ngày 2-12-2015. Sau 10 năm được ghi danh, các cộng đồng thực hành di sản kéo co ở Việt Nam không ngừng nỗ lực bảo vệ, phát huy và lan tỏa giá trị di sản. Dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV cũng nhấn mạnh yêu cầu phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, trong đó có việc bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản gắn với phát triển “kinh tế di sản”. Điều đó cho thấy, nghi lễ và trò chơi kéo co đang dần bộc lộ rõ tiềm năng trở thành một “động cơ mềm” của du lịch văn hóa và “kinh tế di sản” ở nhiều địa phương.
Di sản “Nghi lễ và Trò chơi kéo co” trở thành “hệ sinh thái văn hóa”
Trong hồ sơ ghi danh UNESCO, “Nghi lễ và Trò chơi kéo co” được nhìn nhận như một chỉnh thể: nghi lễ – trò chơi – không gian – cộng đồng. Ở Việt Nam, điều này thể hiện rất rõ trong các cộng đồng thực hành: Kéo mỏ ở đền Vua Bà (Xuân Lai, Sóc Sơn, Hà Nội) diễn ra vào mồng 4 Tết Nguyên đán, gắn với hệ thống nghi lễ chặt chẽ: chặt tre, làm dây, treo dây ở vị trí thiêng, làm lễ xin phép Thánh trước khi mang dây đi trình diễn; Kéo co ngồi ở đền Trấn Vũ (phường Long Biên, Hà Nội) liên kết với tín ngưỡng thờ Đức Thánh Huyền Thiên Trấn Vũ, Đức Thánh Linh Lang Đại vương, chứa đựng lớp nghĩa sâu về trị thủy, chống lũ lụt, cầu quốc thái dân an; Kéo co của người Tày, người Giáy là một nghi lễ và trò chơi dân gian thiêng liêng gắn liền với tín ngưỡng cầu mùa, thường diễn ra trong lễ hội Xuống đồng vào đầu Xuân, đánh dấu sự khởi đầu mùa nông nghiệp, gửi gắm niềm tin vào mùa màng và sự sung túc… Ở tất cả các cộng đồng này, kéo co không chỉ là một “trò chơi hoạt náo” thuần túy, mà còn có nghi lễ trở thành trung tâm của lễ hội, nơi kết tụ tín ngưỡng, ký ức cộng đồng, trật tự làng xã, quan niệm về mối quan hệ giữa con người – thiên nhiên – thần linh.
Sau 10 năm được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, tần suất và không gian thực hành “Nghi lễ và Trò chơi kéo co” ở Việt Nam không ngừng được mở rộng, từng bước thoát khỏi giới hạn của lễ hội làng để gắn với các sự kiện văn hóa – du lịch quy mô lớn. Nếu trước đây kéo co chủ yếu diễn ra trong khuôn khổ lễ hội truyền thống, thì nay ngày càng xuất hiện nhiều hơn trong các chương trình giới thiệu di sản, lễ hội văn hóa – du lịch cấp tỉnh, thành phố, các không gian du lịch và thiết chế văn hóa quốc gia.
Tiêu biểu, cộng đồng kéo mỏ Xuân Lai không chỉ thực hành trong hội làng, mà còn thường xuyên được mời trình diễn tại Khu du lịch Đồng Mô, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, đền Trấn Vũ, hội Gióng đền Sóc…; kéo song Hương Canh, kéo co của người Tày, người Giáy, kéo co Hữu Chấp… cũng có thêm nhiều cơ hội “bước ra khỏi làng”, tham gia các chương trình quảng bá di sản, các sự kiện văn hóa – du lịch lớn của địa phương và ngành văn hóa. Nghi lễ kéo co, vì thế, dần định hình như một “chất liệu sống” trong xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa, chứ không chỉ là sinh hoạt tín ngưỡng – trò chơi dân gian khép kín trong cộng đồng.
Tháng 11-2023, tại đền Trấn Vũ (quận Long Biên, Hà Nội), Liên hoan trình diễn Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại – Nghi lễ và Trò chơi Kéo co được tổ chức với sự tham gia của gần 500 nghệ nhân, người thực hành đến từ 7 cộng đồng ở Việt Nam và Hội kéo co Gijisi (Hàn Quốc), cùng nhiều hoạt động bên lề như tọa đàm, triển lãm, giao lưu văn hóa. Sự kiện này không chỉ góp phần bảo vệ và phát huy giá trị di sản kéo co, mà còn tôn vinh tinh thần đoàn kết, sức mạnh cộng đồng và mở ra không gian trao đổi kinh nghiệm giữa các quốc gia cùng chia sẻ di sản, làm rõ hơn tính chất “sống” và ý nghĩa đương đại của một di sản chung của nhân loại. Đây là bước dịch chuyển quan trọng: từ chỗ di sản chủ yếu tồn tại trong biên giới làng xã, nay trở thành “sự kiện văn hóa – du lịch” có sức hút với đông đảo người dân và du khách, đồng thời góp phần gia tăng sức hấp dẫn của điểm đến.
Cùng với đó, nhiều cộng đồng thực hành kéo co mới tiếp tục được nhận diện trong những năm gần đây như kéo mỏ Ngải Khê (xã Chuyên Mỹ, Hà Nội), kéo co Hòa Loan (xã Vinh Thành, tỉnh Phú Thọ), kéo cõi Phú Hào (phường Vị Khê, tỉnh Ninh Bình), kéo dây thôn Trà Đoài (xã Kiến Xương, tỉnh Hưng Yên)… Sự xuất hiện và được ghi nhận của các cộng đồng này cho thấy việc di sản được UNESCO ghi danh đã nâng cao rõ rệt vị thế của “Nghi lễ và Trò chơi kéo co” ở Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa trong cộng đồng, thúc đẩy giao lưu, trình diễn, quảng bá di sản. Qua đó, di sản không chỉ được bảo tồn và phát huy một cách bền vững, mà từng bước trở thành nguồn lực và sản phẩm du lịch văn hóa hấp dẫn, có khả năng thu hút ngày càng đông đảo người dân và du khách trong nước, quốc tế.

Di sản Nghi lễ và trò chơi Kéo co được nhiều cộng đồng bảo tồn và phát huy
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức đối với công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản, trong đó nguyên liệu làm dụng cụ nghi lễ ngày càng khan hiếm, tre, dây mây, dây song – những vật liệu tưởng chừng bình thường nhưng đang ngày càng trở nên khan hiếm, khó tìm, chi phí cao; Thiếu nguồn kinh phí ổn định để duy trì thực hành; chính sách đãi ngộ cho nghệ nhân còn hạn hẹp. Trong khi, nghệ nhân chính là “xương sống” của nghi lễ, họ hiểu trình tự, lời hò, cách xử lý tình huống, cũng như truyền dạy cho lớp trẻ…
Phát huy giá trị di sản “Nghi lễ và Trò chơi kéo co” gắn với phát triển du lịch bền vững
Công tác bảo tồn và phát huy di sản “Nghi lễ và Trò chơi kéo co” luôn được ngành VHTTDL và các địa phương dành sự quan tâm thường xuyên. Nhiều địa phương đã bố trí nguồn lực để tu bổ, nâng cấp hệ thống di tích gắn với di sản, vừa đáp ứng nhu cầu tổ chức lễ hội, vừa tạo dựng không gian hấp dẫn cho các hoạt động văn hóa – du lịch diễn ra quanh năm. Song song với đó, các câu lạc bộ cộng đồng được hỗ trợ tổ chức các lớp truyền dạy nghi lễ kéo co do chính nghệ nhân bản địa đảm nhiệm, qua đó hình thành đội ngũ kế cận, bảo đảm di sản được gìn giữ và tiếp nối một cách bền vững.
Tuy nhiên, để bảo tồn, phát huy giá trị di sản “Nghi lễ và Trò chơi kéo co” gắn với phát triển du lịch bền vững, cần quan tâm hơn nữa đối với cộng đồng thực hành. Không ai có thể gìn giữ di sản tốt hơn chính những người đã tạo ra, sống cùng và trao truyền nó qua nhiều thế hệ. Vì vậy, cần củng cố vai trò “chủ thể” của cộng đồng thông qua hệ thống hương ước, quy ước, quy chế nội bộ về cách thức tổ chức nghi lễ, lựa chọn người chủ trì, phân công nhiệm vụ cho các dòng họ, đoàn thể, thủ từ, trưởng thôn…
Giáo dục đóng vai trò then chốt để “Nghi lễ và Trò chơi kéo co” không chỉ là hình ảnh quen mắt mà còn là tri thức được hiểu đúng. Ở các địa phương có di sản, kéo co nên được đưa vào chương trình giáo dục di sản trong nhà trường, thông qua tiết học, hoạt động ngoại khóa, tham quan trực tiếp, để thế hệ trẻ nhận thức đây là một nghi lễ mang nhiều tầng nghĩa về tín ngưỡng, lịch sử, tổ chức cộng đồng, chứ không phải trò chơi kéo dây đơn giản.

Các đội tham gia trò chơi Kéo co ngồi
Đồng thời, cần tư liệu hóa đầy đủ trong việc ghi chép, quay phim, số hóa các tư liệu; bảo vệ đình, đền, bãi kéo; tránh sân khấu hóa, thêm thắt làm biến dạng di sản. Tổ chức kéo co đúng mùa, đúng ngữ cảnh lễ hội, tránh thương mại hóa, biến tướng; thiết kế tour trải nghiệm tìm hiểu tín ngưỡng – lịch sử – trò chơi.
Để phát huy giá trị di sản gắn với phát triển du lịch, cần liên kết di sản với làng nghề, nông nghiệp, ẩm thực; phát triển sản phẩm sáng tạo (sách, phim, đồ lưu niệm…) dựa trên hình tượng, câu chuyện kéo co; đảm bảo cộng đồng được hưởng lợi thực chất.
Bên cạnh đó, cần lồng ghép di sản kéo co vào các hoạt động văn hóa – du lịch; trích một phần doanh thu cho quỹ bảo tồn; mở rộng liên hoan, trao đổi kinh nghiệm với các nước được UNESCO công nhận như Campuchia, Hàn Quốc, Philippines. Những hoạt động này không chỉ nâng tầm thương hiệu chung của di sản kéo co, mà còn góp phần giúp Việt Nam bảo tồn di sản hiệu quả, đồng thời phát huy giá trị gắn với du lịch, đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế bền vững.
BÍCH NGỌC
.png)



.jpg)

.jpg)
