Ông Hoàng Minh Tân làm khèn
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cùng với 53 dân tộc anh em, người Mông luôn là một phần của sự thống nhất khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng góp phần làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam. Dân tộc Mông cư trú hầu hết ở các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây Bắc Việt Nam trước đây như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Bắc Kạn… Đặc điểm cư trú của người Mông là ở các vùng núi cao, sống tập trung thành từng bản có quy mô nhỏ so với các tộc người khác.
Trên địa bàn xã Lương Thượng huyện Na Rì trước đây, nay là xã Văn Lang, tỉnh Thái Nguyên có khu dân cư Khuổi Nộc là nơi sinh sống đông nhất của đồng bào Mông. Hiện nay, đồng bào vẫn đang gìn giữ nhiều di sản văn hóa truyền thống như trang phục cổ truyền, nghề truyền thống, múa khèn, thổi sáo và các trò chơi dân gian như tung còn, lảy cỏ, kéo co rồi chọi bò. Hầu hết các giá trị văn hóa truyền thống ấy được thể hiện rõ nét qua các nghi lễ, lễ hội cộng đồng. Văn hóa của người Mông đa dạng, phong phú, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và gắn liền với đời sống, sinh hoạt, tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào.
Mỗi khi nói đến văn hóa của dân tộc Mông ta thường nghĩ ngay đến bộ trang phục nữ được phối các màu sắc rực rỡ, hoa văn đặc trưng, nổi bật giữa không gian xanh mướt của núi rừng. Trang phục truyền thống của người Mông được làm từ cây lanh. Trang phục phụ nữ mỗi nhánh Mông có khác nhau đáng kể về sắc màu và hoa văn trang trí, nhưng cơ bản vẫn gồm váy, áo, yếm, đồ trang sức, thắt lưng, khăn quấn đầu, dây tua, xà cạp. Trang phục nam mỗi nhánh Mông cơ bản giống nhau, áo ngoài được làm từ vải lanh nhuộm chàm tạo màu xanh, đen, có 4 túi, quần ống rộng không có chun và có thắt lưng. Đồng bào Mông có truyền thống sinh sống ở lưng chừng núi, lưng chừng đèo. Xưa kia cuộc sống thường du canh du cư nhưng sau này Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách nhằm chăm lo, ổn định cuộc sống nên giờ đây đã định canh định cư, có cuộc sống ổn định, chất lượng, cuộc sống ngày càng được nâng cao.
Nhà ở của đồng bào Mông là nhà trệt, hiện nay tại khu dân cư Khuổi Nộc 100% nhà của đồng bào Mông được kiên cố hóa bằng tường gạch mái proximăng hoặc mái lợp tôn. Canh tác ruộng nương trồng lúa tẻ, lúa nếp, ngô là chủ yếu. Đồ ăn truyền thống cơ bản chế biến từ ngô như bánh ngô, mèn méng. Ngày nay khi cuộc sống định cư ổn định, đồng bào đã ăn cơm gạo tẻ, gạo nếp thì đồ xôi hoặc làm bánh dày. Món ngon truyền thống đặc trưng của đồng bào Mông không thể thiếu là thắng cố, thịt lợn hun khói. Đồ uống là rượu cất từ ngô với kỹ thuật lên men hoàn toàn thủ công.
Ông Hoàng Minh Tân đang hướng dẫn anh Hoàng Văn Dân nghề làm khèn
Văn hóa tinh thần của người Mông theo tín ngưỡng đa thần, chịu ảnh hưởng của Đạo giáo, họ coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, những vị thần bản mệnh của cá nhân, của dòng họ và của dân tộc Mông. Đây chính là yếu tố cốt lõi của sự gắn kết cộng đồng, dòng họ và của cả dân tộc. Cộng đồng dân tộc Mông có những quy ước kiêng kỵ chặt chẽ với nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp như đoàn kết, gắn bó, thủy chung, nhân ái.
Trong những di sản văn hóa truyền thống vật thể và phi vật thể ấy, có lẽ cây khèn, tiếng khèn được coi là biểu tượng văn hóa của người Mông được nhiều người biết đến. Từ xưa, cây khèn luôn là vật bất ly thân của người đàn ông dân tộc Mông mỗi khi đi chơi ra khỏi nhà. Nhờ cây khèn mà người Mông có thể thổ lộ tâm tình qua âm điệu du dương, trầm bổng giữa núi non hùng vĩ bên cạnh đó khèn còn là đạo cụ sinh động, mang tính tạo hình trong những động tác, vũ điệu truyền thống vừa uyển chuyển, linh động vừa khỏe khoắn. Ở một góc nhìn nào đó thì múa khèn thể hiện tinh thần thượng võ, ý chí kiên cường của người đàn ông miền sơn cước.
Nói đến cây khèn của đồng bào Mông thì nhiều người biết nhưng nói đến nghề và hiểu về nghề làm khèn hẳn sẽ ít người biết hơn. Bởi không phải bất kỳ cộng đồng người Mông ở đâu cũng biết làm khèn. Ví dụ như trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn trước đây, người Mông sống rải rác ở một số huyện nhưng nghề làm khèn hiện chỉ còn tại thôn Bản Nghè, xã Cổ Linh, huyện Pắc Nặm. Theo giới thiệu của địa phương, tôi theo con đường quanh co bên triền núi, nơi có độ cao trung bình trên 800m so với mực nước biển đến với Bản Nghè. Trong không gian xanh mát của núi rừng hiện lên trước mắt những ngôi nhà trệt, còn đó lác đác những mái nhà cũ rêu phong của đồng bào Mông, họ sống thành từng xóm và các hộ kết nối với nhau bằng những con đường mòn nhỏ bé quanh co. Dừng trước cửa một gia đình, tôi bắt gặp những nguyên liệu tre, gỗ… cùng dụng cụ cưa, dao, đục… của nghề chế tác khèn. Ngôi nhà nhỏ khiêm nhường đó là gia đình ông Hoàng Minh Tân - người đang lưu giữ và tiếp nối, trao truyền nghề làm khèn của đồng bào Mông. Sản phẩm làm ra thường được đặt hàng và chưa từng phải đem xuống chợ bán.
Ngày nay cũng chính tại Bản Nghè chỉ còn lại ít người biết nghề này. Đó là ông Hoàng Minh Tân (sinh năm 1942) và anh Hoàng Văn Dân (sinh năm 1978), mỗi khi nông nhàn, họ lại cùng nhau làm những cây khèn. Mỗi cây khèn khi chuẩn bị đủ nguyên liệu thì thời gian chế tác cũng phải hằng tháng mới xong. Người Mông ở Bắc Kạn không có nguyên liệu làm khèn nên ông Tân phải từ Khuổi Nộc sang huyện Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng mua. Nghề làm khèn theo ông Tân từ khi ông 33 tuổi bởi với ông nó như một phần của cuộc sống. Do vậy, ông luôn đau đáu với sự sống còn của chiếc khèn trong đời sống của đồng bào mình.
Ban đầu, ông yêu tiếng khèn, nên mỗi khi có thời gian ông lại ngắm nghía, quan sát rồi nhớ lại những hình ảnh người đi trước ngồi làm khèn mà khi còn nhỏ ông thấy, thế là ông cũng ấp ủ thực hành nghề. Dần dần ông trở thành thợ làm khèn lúc nào không hay. Hiện nay với mong muốn giữ nghề nên ông đã dạy các cháu trong bản chơi khèn và làm khèn với mong muốn chiếc khèn không bị mai một theo thời gian. Nói về tình yêu chiếc khèn ông Tân nói: “Đồng bào mình có cây khèn quý lắm, trong tất cả các dịp lễ dù vui hay buồn đều cần đến tiếng khèn. Với mong muốn giữ nghề tôi đã làm và dạy các cháu từ cách chọn nguyên liệu (tre, gỗ, vỏ cây đào rừng…) đến cách làm “lưỡi gà” sao cho tiếng khèn phải hay. Khi biết làm khèn thì cũng dạy các cháu phải biết thổi khèn, múa khèn”. Sức đã yếu, lưng đã còng nhưng ông vẫn cùng anh Dân sang địa phận đất Cao Bằng tìm mua nguyên liệu.
Khèn của ông Tân làm ra không chỉ mang tính thẩm mỹ cao, giữ nguyên nét truyền thống mà còn cho chất âm đẹp. Có được như vậy không chỉ yếu tố kỹ thuật quyết định mà nó còn chứa đựng tình yêu cây khèn của người nghệ nhân. Ông được coi là người đang “giữ hồn” dân tộc tại Bản Nghè, ông luôn cởi mở và sẵn sàng chia sẻ về nghề làm khèn, cách chơi khèn. Ông không chỉ làm khèn giỏi mà là người chơi thành thục nhiều bài khèn truyền thống, thực hành nhiều điệu múa khèn. Tiếng khèn gọi bạn, tiếng khèn mừng vui hay tiếng khèn đưa linh hồn của người đã chết về với thế giới bên kia ông đều chơi được.
Tuổi đã cao nhưng với lòng yêu mến và trân trọng giá trị truyền thống của dân tộc mình nên ông Tân vẫn cứ ngày ngày gắn bó với nghề làm khèn. Xưa thì thủ công toàn phần, ngày nay đã có máy móc hỗ trợ phần nào nhưng thủ công vẫn là chính. Bởi chính từ kỹ thuật chọn nguyên liệu đến việc đo, cắt, tạo bầu hay làm chiếc “lưỡi gà” đều phải tỉ mỉ, chính xác. Người nghệ nhân phải qua các công đoạn cưa, đẽo, đục, gọt rất nhiều lần và tốn nhiều công sức, thời gian mới làm ra được chiếc khèn chuẩn để khi chơi khèn có âm đẹp đáp ứng các tiêu chuẩn dân gian của cộng đồng.
Không chỉ biết làm Khèn, ông Hoàng Minh Tân còn biết múa khèn
Anh Hoàng Văn Dân cũng chia sẻ: “Làm khèn không làm nhanh được, ví dụ khi đục lỗ tạo âm thanh phải làm thật từ từ và khéo léo để tạo lỗ mịn có vậy mới ra được âm thanh bay bổng khi chơi”. Ta thấy trên mỗi ống khèn đều có lỗ âm và đều được gắn “lưỡi gà” làm bằng lá đồng. Cây khèn Mông được tạo thành từ ống bầu để phối với 6 ống như ống trúc rừng tựa như ống sáo, có độ dài ngắn khác nhau được cắm xuyên qua bầu rồi cố định với nhau ở những điểm nhất định tạo cho cây khèn có một hình dáng tạo cảm giác vừa cứng cáp vừa mềm mại bởi đường cong được kết hợp từ 6 ống trúc rừng. Với những kỹ thuật công phu, đòi hỏi tính chính xác, sự khéo léo, chi tiết và khả năng cảm nhận âm nhạc của người thợ, chiếc khèn khi hoàn thành chính là một tác phẩm nghệ thuật mang biểu tượng văn hóa của người Mông. Cây khèn có lẽ vì thế đã trở thành một phần cuộc sống của người dân tộc Mông, nó được những người đàn ông luôn mang theo mỗi khi xuống chợ phiên. Hình ảnh chàng trai Mông trong bộ trang phục màu chàm tay dắt ngựa xuống núi, vai đeo chiếc khèn như một biểu tượng cho giá trị văn hóa tộc người.
Trong diễn trình văn hóa Việt Nam đang tiến bước vào kỷ nguyên vươn mình với nhiều công cụ, thành quả khoa học công nghệ được áp dụng rộng rãi vào đời sống xã hội, có lẽ nghề làm khèn Mông cũng đang đối mặt với nhiều thách thức. Nguồn nguyên liệu tự nhiên để làm khèn ngày càng khan hiếm, khu vực rừng của Bắc Kạn do khí hậu thời tiết không thích hợp để các loại cây như đào rừng, trúc rừng, hay một loại cây thân gỗ có thuộc tính dẻo, nhẹ, không cong, ít đàn hồi và hút nước tốt sinh sống mà chỉ có ở vùng rừng núi huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng mới có. Bên cạnh đó, thế hệ trẻ có quá ít thời gian dành tình yêu cho các loại hình nghệ thuật truyền thống, nghệ nhân tuổi đã cao, số người biết chế tác khèn hoặc chơi khèn đang dần ít đi. Giờ đây, tại Bản Nghè, nghệ nhân Hoàng Minh Tân vẫn lặng lẽ “giữ hồn”, “truyền lửa” cho con cháu với hy vọng giữ được hồn cốt dân tộc.
Nhưng, chúng ta có quyền tin rằng nghề làm khèn sẽ được nối dài có sức sống bền vững để cho tiếng khèn Mông mãi ngân vang, bay xa giữa đại ngàn và còn là sợi dây kết nối các thế hệ người Mông với cội nguồn văn hóa. Cuộc sống dù có hiện đại nhưng đồng bào Mông vẫn luôn tự hào giữ gìn cây khèn như giữ phần hồn dân tộc mình. Chính tiếng khèn ấy vẫn đâu đây vang vọng núi rừng để rồi trở thành một “món ngon” trong thực đơn của du khách mỗi khi du lịch trải nghiệm ở cộng đồng dân tộc Mông.
Việc Bộ VHTTDL kịp thời đưa khèn Mông (tại một số địa phương của tỉnh Yên Bái trước đây) vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2023 đã khích lệ cộng đồng ở các địa phương khác nâng cao ý thức tự hào và giữ gìn di sản. Đây chính là một trong số động lực quan trong góp phần bảo tồn, phát huy giá trị của nghề làm khèn Mông trong xã hội đương đại Việt Nam.
NGUYỄN TIẾN LỘC - Ảnh: CAO TRUNG VINH
Nguồn: Tạp chí VHNT số 614, tháng 7-2025