Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề đặt ra

Tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa có mối quan hệ biện chứng, thể hiện ở chất lượng phát triển bền vững của quốc gia. “Nếu phát triển kinh tế để xây dựng nền tảng vật chất thì phát triển văn hóa để tạo dựng nền tảng tinh thần của xã hội” (1). Trên cơ sở vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực hiện các quan điểm, chủ trương và giải pháp kịp thời, đúng đắn để giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Đây là đòi hỏi cấp thiết và lâu dài trong công cuộc đổi mới đất nước, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế hiện nay.

1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế. Người cho rằng: “Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới đủ điều kiện phát triển được” (2). Phát triển kinh tế luôn có sự nâng đỡ của văn hóa; văn hóa tuyệt đối không phải là vật phái sinh hoặc thứ yếu, mà văn hóa luôn có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh tế. Bởi lẽ, văn hóa là lĩnh vực có khả năng huy động và tạo ra động lực tinh thần lớn mạnh góp phần xây dựng kinh tế và phát triển xã hội. “Văn hóa không thể đứng ngoài phát triển. Nó nằm bên trong, là nhân tố nội sinh, vừa là mục tiêu, vừa là động lực và điều tiết của sự phát triển” (3). Kinh tế chính là cơ sở, điều kiện cho sự hình thành và phát triển văn hóa: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo, vì thế, kinh tế phải đi trước. Phải phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta” (4). Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa chính là nội dung then chốt của chiến lược phát triển bền vững. Vì vậy, phát triển văn hóa là nhiệm vụ tất yếu để thực hiện nhiệm vụ cơ bản là tăng trưởng kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trên cơ sở vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã từng bước đề ra những quan điểm, chủ trương và giải pháp kịp thời, đúng đắn để xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa qua các kỳ Đại hội. Đảng ta đã thường xuyên khẳng định chủ trương và quan điểm có ý nghĩa bao trùm là phải kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa trong từng giai đoạn lịch sử. Ngay từ những năm đầu đổi mới, Đảng ta đã xác định luôn giữ vững mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; coi tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa. Quan điểm đó được Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh: “Gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển” (5). Như vậy, Đảng luôn chủ trương phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa. Hai mục tiêu này có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, tăng trưởng kinh tế là cơ sở, làm tiền đề và điều kiện cho nhau, ngược lại, phát triển văn hóa là điều kiện quan trọng thúc đẩy và bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững của đất nước.

2. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam hiện nay

Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, việc thực hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa đã đạt được những thành tựu quan trọng. Xác định rõ nền kinh tế ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước cũng đã có nhiều chính sách phát triển giáo dục, khoa học, y tế, văn hóa; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, y tế. Chính nhờ đổi mới tư duy về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội nên kinh tế đất nước tăng trưởng khá nhanh trong nhiều năm qua. Đặc biệt, với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đất nước ta đã vượt qua những khó khăn về kinh tế, xã hội do đại dịch COVID-19 mang lại. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân đầu người của Việt Nam tăng trưởng năm 2022 đạt 8,02%, cao nhất giai đoạn 2011-2022. Theo Tổng cục Thống kê năm 2022, tổng tỷ lệ nghèo đa chiều cả nước là 9,35%, trong đó, tỷ lệ hộ nghèo là 5,2% và tỷ lệ hộ cận nghèo là 4,15%. Theo báo cáo, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam là 0,703 vào năm 2021, tăng hai bậc trên bảng xếp hạng toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc gia, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới. Điều này cho thấy, kinh tế, xã hội của nước ta đang tiếp tục phát triển và là điểm sáng thứ hai châu Á về tốc độ tăng GDP, cải thiện về thu hút FDI, vốn gián tiếp, kiều hối và phát triển du lịch, nông nghiệp và một số ngành công nghiệp phụ trợ gắn với xuất khẩu.

Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên nhân khách quan và chủ quan, tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa của nước ta vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém. Nổi bật đó là: việc tổ chức triển khai thực hiện quan điểm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa còn chưa đồng bộ và triệt để; thành quả trong lĩnh vực văn hóa phát triển chưa tương xứng với những thành quả trong tăng trưởng kinh tế, những biểu hiện “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp” (6), tham nhũng xảy ra ở hầu hết các ngành, các cấp, thậm chí ở ngay trong các cơ quan có chức năng chống tham nhũng và bất cập trong giáo dục… đã ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, cũng như phát triển văn hóa của đất nước.

Từ thực trạng trên, đặt ra một số vấn đề trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở Việt Nam hiện nay như sau:

Một là, vấn đề dân số: với quy mô dân số gần 100 triệu dân, Việt Nam đang đứng trước những thách thức có thể ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của đất nước. Dân số đông là một thị trường lớn, hấp dẫn đầu tư, mang lại nguồn lợi về mặt số lượng lao động cho phát triển song cũng chứa đựng thách thức rất lớn về chất lượng lao động, về an ninh lương thực, giáo dục và đào tạo, môi trường… Để tăng trưởng kinh tế chúng ta đang cần rất nhiều lao động có kỹ năng để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhưng số người thất nghiệp trong lao động không chỉ đặt ra vấn đề về giải quyết việc làm mà còn an ninh xã hội, tệ nạn bắt nguồn từ nạn thất nghiệp. Vấn đề đặt ra cho tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa ở Việt Nam là phải có chính sách kiểm soát hiệu quả đối với việc gia tăng dân số.

Hai là, vấn đề giáo dục: là hoạt động không thể thiếu đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Trong đó, sản phẩm của giáo dục là con người, là yếu tố đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Muốn có sự tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực chất lượng cả về thể chất và trí tuệ nhằm phát triển đất nước. Chỉ thông qua giáo dục mới có thể lựa chọn những mô hình phù hợp với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Vì vậy, khi giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, Đảng và Nhà nước ta cần phải đặc biệt quan tâm đến giáo dục, khắc phục tình trạng yếu kém, hạn chế trong các chiến lược phát triển của nền giáo dục Việt Nam. Bên cạnh đó, phải xây dựng thành công xã hội học tập, học tập suốt đời theo phương châm hiện đại, tiên tiến, mở rộng hệ thống đào tạo theo hướng chuyển đổi số, mở rộng và phát triển thị trường công nghệ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, gia tăng thu nhập quốc dân, phát triển văn hóa, xã hội.

Ba là, vấn đề tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế: Hiện nay, nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế thị trường đã góp phần khơi dậy các tiềm năng kinh tế, tạo điều kiện phát triển cho các thành phần kinh tế, xã hội, đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường đã gây ra sự bất bình đẳng, sự bất công, dẫn đến sự phân hóa xã hội sâu sắc, hiện tượng suy thoái đạo đức, lối sống lan rộng, làm biến dạng thang giá trị văn hóa dân tộc. Các quy luật kinh tế, cạnh tranh, đặc biệt là quy luật giá trị không chỉ tác động đến kinh tế, đe dọa sự tăng trưởng kinh tế, những giá trị văn hóa tốt đẹp, thúc đẩy chủ nghĩa thực dụng, làm rối loạn sự tiến bộ và công bằng xã hội. Điều đó đòi hỏi đất nước phải phát huy mặt tích cực và hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường, duy trì sự ổn định và phát triển xã hội. Cơ chế thị trường vận hành có rất nhiều vấn đề đặt ra trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội ở Việt Nam. Trong đó, nổi bật là vấn đề xây dựng một hệ giá trị chưa đủ bao quát các lĩnh vực quan trọng của đời sống. Thay vào đó, còn xảy ra tình trạng lệch chuẩn, không tạo được mối liên hệ nội tại, phổ biến trong tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa.

Để thực hiện và giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, nhất định chúng ta phải xây dựng môi trường xã hội chủ nghĩa trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với một hệ giá trị thật sự tiến bộ. Đồng thời, cùng với sự định hướng tích cực của nhà nước xã hội chủ nghĩa thì vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa mới được định hướng chủ nghĩa nhân văn cao cả, vì những giá trị của con người và thực hiện “sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (7).

Bốn là, vấn đề chống tham nhũng: Vấn đề chống tham nhũng được dư luận xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng, các văn kiện của Đảng đề cập đến như “một thứ bệnh dịch” nổi cộm. Còn tồn tại tham nhũng thì kinh tế không thể phát triển bền vững, không thể nói xã hội có sự phát triển văn hóa, có tiến bộ và công bằng xã hội được. Mặc dù, “công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ và đạt nhiều kết quả quan trọng, rõ rệt, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao và quốc tế ghi nhận” (8). Tuy nhiên, những con số “biết nói” về tội phạm tham nhũng thời gian gần đây đã xâm hại đến uy tín của bộ máy nhà nước, đến công bằng xã hội, làm giảm sút niềm tin, cản trở các nỗ lực giảm nghèo và phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Do đó, trong giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục thực hiện quyết liệt và triệt để nhiệm vụ đấu tranh vô cùng khó khăn, phức tạp này, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi nạn tham nhũng, củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân với Đảng trong tình hình mới.

Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa có rất nhiều vấn đề Đảng và Nhà nước ta cần phải quan tâm, chú ý cả về mặt lý luận và thực tiễn liên quan tới rất nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội của đất nước. Các vấn đề này phải gắn liền với việc đưa ra và thực hiện các giải pháp trực tiếp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa hiện nay. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là điều kiện của sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, tăng trưởng kinh tế đều phải hướng tới phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; mỗi chính sách phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

________________

1. Phạm Duy Đức, Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa trong xây dựng và phát triển đất nước, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11, 2017, tr.56.

2. Hồ Chí Minh, Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr.320.

3. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.431.

4. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.59.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.99.

6, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.223, 206.

7. C.Mác và Ph.Ănghen toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.628.

Tài liệu tham khảo

1. Lê Thị Thanh Hà, Kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 (99), 2016, tr 3-7.

2. Nguyễn Thị Thanh Nga, Sự tác động giữa văn hóa và kinh tế trong thời đại ngày nay, tapchicongsan.org.vn, 20-1-2015.

3. Phạm Xuân Nam, Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ, tapchicongsan.org.vn, 26-9-2011.

TS TRỊNH THỊ HẠNH

Nguồn: Tạp chí VHNT số 524, tháng 2-2023

;