Thông tin trên được đưa ra tại Hội thảo khoa học quốc gia “Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975-2025)” do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức ngày 18-10 tại Hà Nội. Hội thảo nhằm tổng kết những thành tựu đạt được trong gần nửa thế kỷ qua, đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập trong công tác nghiên cứu, sưu tầm và phát huy giá trị di sản văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam kể từ sau năm 1975 đến nay.
Tham dự Hội thảo có đại diện lãnh đạo các ban, bộ, ngành, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội Trung ương; lãnh đạo Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam; đại diện các hội văn nghệ dân gian địa phương…
Toàn cảnh Hội thảo
Hội thảo thu hút 154 tham luận, chia thành 5 tiểu chủ đề như: Những vấn đề chung; Ngữ văn dân gian; Lễ hội, tín ngưỡng dân gian, phong tục tập quán; Tri thức dân gian; Nghệ thuật dân gian. 11 tham luận được trình bày tại Hội thảo và 6 phát biểu trao đổi trực tiếp đã tập trung làm rõ nhiều khía cạnh, những chia sẻ sâu sắc từ các nhà nghiên cứu và những người gắn bó với mạch nguồn văn hóa dân tộc - để từ đó khơi dậy tinh thần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, văn nghệ dân gian trong bối cảnh hiện nay.
Phát biểu tại hội thảo, GS, TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam nhấn mạnh: “Giai đoạn 1975-2025 là thời kỳ hoạt động phát triển nhất của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Hội đã sưu tầm và khôi phục khoảng 1.500 di sản văn hóa dân gian (sử thi, dân ca, lễ hội, trò diễn, diễn xướng...); vinh danh hơn 700 nghệ nhân dân gian, những báu vật nhân văn sống của các dân tộc; đăng cai hoặc kết hợp với các địa phương, các chi hội tổ chức nhiều hội thảo; tư vấn cho các bộ ngành, địa phương về việc xác định những di sản văn hóa dân gian để giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc… Đặc biệt, trong số các di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO ghi danh và 655 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (tính đến ngày 23-6-2025) đều có sự đóng góp của các hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam”.
GS, TS Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phát biểu tại Hội thảo
Tại Hội thảo, TS La Mai Thi Gia - Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ dân gian, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM) đã trình bày tham luận về những thành tựu của văn học dân gian Khmer Nam Bộ từ sau năm 1975 đến nay.
Theo bà, với nền văn hóa đặc sắc, người Khmer sở hữu kho tàng văn học dân gian phong phú gồm truyện kể, tục ngữ, dân ca, sân khấu truyền thống... phản ánh sinh động đời sống tinh thần, tín ngưỡng và tri thức dân gian của cộng đồng. Từ sau năm 1975, công tác sưu tầm, biên soạn và nghiên cứu văn học dân gian Khmer Nam Bộ từng bước được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả quan trọng cả về chiều rộng tư liệu lẫn chiều sâu học thuật.
Tham luận của bà nhằm tổng kết hành trình 50 năm bảo tồn và phát huy văn học dân gian Khmer qua các công trình nghiên cứu tiêu biểu, qua đó phác họa diện mạo thể loại và đặc điểm nội dung của văn học dân gian Khmer trong bối cảnh văn hóa tộc người. TS La Mai Thi Gia cũng kêu gọi sự quan tâm, đầu tư nhiều hơn từ giới nghiên cứu và các cơ quan văn hóa nhằm bảo tồn, phát huy bền vững giá trị di sản của cộng đồng Khmer Nam Bộ trong thời kỳ hội nhập.
TS La Thị Mai Gia trình bày tham luận
Tác giả Trương Tài Linh (Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Bạc Liêu) với tham luận “Đờn ca tài tử Nam Bộ từ di sản dân gian đến sân khấu hóa hiện đại” đã khẳng định, Đờn ca tài tử Nam Bộ là một loại hình âm nhạc đặc sắc hình thành cuối thế kỷ XIX, gắn liền với đời sống tinh thần của người dân vùng sông nước Nam Bộ, được kế thừa từ nhạc lễ, nhạc cung đình Huế, âm nhạc dân gian miền Trung và phát triển theo hướng ngẫu hứng tự do, đậm chất dân giã. Đờn ca tài tử không chỉ là hình thức giải trí mà còn truyền tải tâm tư, đạo lý và văn hóa cộng đồng. Từ sau 1975, loại hình này được sân khấu hóa giúp đưa Đờn ca tài tử Nam Bộ đến gần với công chúng hơn, tuy nhiên cũng đặt ra nhiều thách thức. Tham luận đã đề xuất bảo tồn Đờn ca tài tử bằng cách kết hợp truyền thống với hiện đại, vừa giữ nguyên bản, vừa khuyến khích sáng tạo.
Ngoài ra cũng có nhiều tham luận đáng chú ý được phát biểu tại Hội thảo như: Nửa thế kỷ điều tra, sưu tầm, nghiên cứu văn hóa, văn nghệ dân gian ở Thái Bình của tác giả Nguyễn Thanh (Chi hội Văn nghệ dân gian Thái Bình); Nửa thế kỷ bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, văn nghệ dân gian đất Quảng của Thạc sĩ Bùi Văn Tiếng (Chi hội Văn nghệ dân gian TP Đà Nẵng); Văn nghệ dân gian Việt Nam từ sau ngày đất nước thống nhất (1975-2025) và những đường biên tiếp nhận của PGS, TS Nguyễn Hữu Sơn (Chi hội Văn nghệ dân gian Viện Văn học)… đã nêu lên những di sản văn hóa dân gian cần được bảo tồn và gìn giữ.
Tác giả Trương Tài Linh phát biểu tham luận
Tại hội thảo, bên cạnh việc tổng kết, các nhà khoa học cũng chỉ ra những vấn đề đang đặt ra cho công tác nghiên cứu trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong đó, đáng chú ý là yêu cầu xây dựng hệ thống nghiên cứu tổng thể về văn hóa dân gian các vùng miền, thiết lập ngân hàng dữ liệu (databank) về di sản văn hóa dân gian, đồng thời đẩy mạnh quảng bá kết quả nghiên cứu ra cộng đồng trong nước và quốc tế.
Hội thảo được giới nghiên cứu đánh giá là hoạt động có ý nghĩa thiết thực, góp phần nhìn lại chặng đường 50 năm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân gian dân tộc, đồng thời định hướng cho công tác nghiên cứu trong giai đoạn mới - gắn kết hơn với đời sống đương đại và tiến trình chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa.
Bài, ảnh: HẠNH CHI