DI TÍCH VÀ LỄ HỘI CHÙA SƠN DƯỢC, THÁI NGUYÊN

Đại Từ được biết đến là một mảnh đất màu mỡ, phì nhiêu với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, trong đó phải kể đến tài nguyên khoáng sản và du lịch dồi dào, có thể phân chia thành các nhóm chính: khoáng sản là nguyên liệu cháy, khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim loại... Ngoài ra, tài nguyên du lịch cũng đem lại nhiều lợi ích kinh tế, góp phần quan trọng cho sự phát triển chung của toàn huyện. Khu du lịch Hồ Núi Cốc nổi tiếng với câu chuyện tình huyền thoại của nàng Công và chàng Cốc làm đắm say lòng người. Đây là điểm du lịch đã thu hút đông đảo hàng vạn du khách trong và ngoài nuớc đến với Đại Từ.

Chùa Sơn Dược là một chùa lớn thuộc xã Bình Thuận (vùng trung tâm của huyện Đại Từ). Chùa còn có tên khác là chùa Yên Thuận gọi theo tên làng, là một ngôi chùa cổ có niên đại từ đầu TK XVIII, trên bia đá ghi rõ: “Minh Mệnh thập niên”, tức là được trùng tu vào những năm thứ 10 triều Minh Mệnh (1830). Hiện nay, chùa còn lưu giữ đuợc ba bia đá cổ. Theo một số nguồn tư liệu và qua khảo sát thì tấm bia thứ nhất có kích thước là 1,2m x 0,65m, trên chóp và viền quanh bia có nhiều hoa văn như: 2 con rồng chầu mặt trời, hoa cúc dây, đường diềm. Bia khắc cả 2 mặt chữ Hán. Mặt trước có 25 dòng chữ, ước chừng có khoảng 500 chữ Hán, với nhan đề là “Đồng chung bi ký” (bài ký đúc chuông đồng khắc trên bia), mở đầu bài ký cho biết địa danh “Phú Bình phủ, Đại Từ huyện, Yên Thuận xã...” và một bài ký dài nội dung luận về đạo Phật, khuyên con người nên làm điều thiện, diệt trừ cái ác để tu tâm, tích đức, hưởng cái phúc, lộc. Mặt sau bia khắc niên đại “Minh Mệnh thập niên” tức là bia dựng vào năm Minh Mệnh năm thứ 10 (1830). Tấm bia thứ hai cũng khắc 2 mặt ước chừng có gần 1.000 chữ Hán, có tên “Đồng chung bi ký”, kích thước: 1,2m x 0,65m với nội dung ghi họ tên, địa chỉ, người công đức tiền, ruộng, đúc chuông, trùng tu chùa. Tấm bia thứ ba có, kích thước nhỏ hơn 2 bia nói trên 0,90m x 0,50m, bia được đặt trên lưng rùa, nhưng đầu rùa đã bị mất. Do chất lượng đá làm bia kém nên toàn bộ nội dung văn bia đã bị mòn hết, chỉ còn một số chữ đầu đề của bia là “Hậu Phật bi ký”. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ được một quả chuông đồng lớn, cao trên 1m, chuông có 4 ô, 4 núm, quai được tạo dáng đúc 2 con rồng đấu lưng nhau. Con rồng mang rõ phong cách nghệ thuật điêu khắc thời Nguyễn: bờm rậm, sừng dài, mắt lồi, tai thú trông khá dữ dằn. Trên thân chuông được trang trí 2 lớp ô, lớp ô trên có 5 đường viền, trong ô để trống không khắc chữ, lớp ô dưới nhỏ hơn có khoanh ở các góc hoa văn hình lá sòi, miệng chuông để trơn không trang trí hoa văn. Bia đá và chuông đồng là một trong những hiện vật rất có giá trị để minh chứng sát thực nhất, chùa Sơn Dược là một ngôi chùa cổ đã có từ lâu đời...

Qua thời gian, chùa đã được trùng tu sửa chữa và xây mới nhiều lần, đến nay chùa khang trang bề thế nhờ công đức thành tâm của nhiều phật tử, nhân dân trong và ngoài xã. Bên cạnh đó là sự ủng hộ của chính quyền các cấp. Ngày 19 - 8 - 2009, UBND tỉnh Thái Nguyên đã công nhận chùa Sơn Dược là di tích lịch sử văn hóa tại Quyết định số 1999/QĐ - UBND.

1. Kiến trúc và bài trí

Ban đầu, chùa Sơn Dược có kiến trúc đơn giản, dựng bằng gỗ và lợp gianh. Sự tác động của thiên nhiên và con người đã khiến chùa bị xuống cấp, hư hại. Sau nhiều lần trùng tu và xây mới hiện nay chùa có nhà tiền đường và thượng điện (gác chuông) nằm ở phía trung tâm trong toàn bộ quần thể kiến trúc của chùa. Các hạng mục kiến trúc đều chồng diêm 2 tầng, 8 mái đầu đao cong vút, ở các bờ nóc và bờ chảy đều được đắp hình các con kìm. Khu vực giữa nóc chùa là biển lớn có ghi 3 chữ Sơn Dược tự. Giữa tầng 1 và tầng 2 ghi những câu Phật nhập tăng huy, Pháp luân thường chuyển, “Nhật quang phổ chiếu”. Tất cả đều được viết bằng chữ Hán rất đẹp và rõ ràng.

Không gian khuôn viên và sân chùa tương đối rộng, riêng sân chùa có diện tích khoảng 400m2 được lát gạch đỏ, bao quanh là những cây xanh cổ thụ to lớn có tuổi thọ hàng trăm năm như đa, sanh, đề... Đặc biệt, nhà chùa còn có cây thị cổ thụ, cành lá xum xuê xanh mát quanh năm, gốc to rộng phải vài người ôm mới hết, được trồng bên trái ngay sát với nhà tiền đường và thượng điện. Ngoài ra, chùa còn có nhà giảng đường tương đối rộng là nơi các sư thày giảng đạo và truyền bá kinh Phật, giáo lý Phật pháp, có nhà tiếp khách và trưng bày các đồ cung tiến của Phật tử. Chùa còn có một khu bếp, một nhà hai tầng.

Xét về mặt tổng thể kiến trúc của chùa Sơn Dược không cổ kính như một số ngôi chùa ở Bắc Bộ mà thiên về kiểu chùa miền Nam. Các chùa ở miền Bắc thường có cấu trúc xây dựng theo hình Hán tự hoặc chữ Nho thì các chùa ở miền Nam thường không theo xu hướng cổ mà luôn mang nhiều yếu tố hiện đại hơn. Chùa Sơn Dược do được xây lại trong thời gian gần đây nên về mặt kiến trúc cũng mang nhiều yếu tố mới thể hiện rõ ở cấu trúc, cách bài trí và sắp xếp hoa văn, họa tiết, trang trí... Tuy vậy, chùa vẫn đáp ứng được nhu cầu về văn hóa tâm linh, là địa chỉ tu tập tin cậy của người dân nơi đây.

Do từ khi hình thành đến nay trải qua nhiều lần trùng tu và xây mới nên việc sắp xếp điện thờ cũng như lưu giữ các tượng phật của chùa Sơn Dược gặp nhiều khó khăn. Trong chùa hiện nay có cả tượng mới và tượng cũ. Trong điện thờ hiện tại chỉ còn lại 5 pho tượng cũ, đó là tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu và 2 tượng thần linh thổ địa. Tuy nhiên, những pho tượng này cũng chỉ khoảng 20 năm trở lại đây, chứ cũng không phải có từ khi xây dựng chùa.

Thời gian gần đây, chùa Sơn Dược được mở rộng hơn, khang trang và quy củ hơn. Mặt khác, chùa cũng được các tăng ni phật tử ở nhiều nơi cung tiến, công đức nhiều pho tượng mới và đẹp như tượng phật Bà nhỏ, phật Bà Quan Âm, Thiền Sư Đại Đức, Thích Ca Mâu Ni...

Trong quần thể kiến trúc của chùa, nhà tiền đường và thượng điện là nơi diễn ra các hoạt động thờ cúng nhiều nhất, các tượng phật thờ cúng đến nay cũng được sắp xếp theo một trình tự riêng có sự khác biệt nhất định với các ngôi chùa khác. Ở giữa nhà tiền đường và thượng điện là nơi đặt tượng phật Thích Ca Mâu Ni, cao chừng 3m, màu vàng, trên bàn thờ phía trước có đặt tòa Cửu Long. Bên phải tượng phật Thích Ca là bàn thờ Thánh Hiền và Hộ Pháp cùng với bàn thờ Địa Tạng - dẫn vong người mất, bên trái là bàn thờ Đức Ông và Hộ Pháp. Đằng sau tượng phật Thích Ca là một hệ thống bàn thờ được xếp san sát nhau, trên cao là thờ thần Tam Thân Tam Thế, ở dưới xếp thứ tự từ phải sang trái là bàn thờ thần linh thổ địa và Phật Bà nhiều tay, tiếp theo là bàn thờ Thiền Sư Đại Đức, vua cha Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu, Đạt Ma Sư Tổ (bàn thờ tổ) và Phật Bà nhỏ. Cuối cùng là bàn thờ Bác Hồ, Quan Âm Thị Kính và Thần Linh Thổ Địa. Ngoài ra, ở nhà giảng đường của chùa cũng bài trí bàn thờ Phật lớn phục vụ cho việc giảng dạy, truyền bá giáo lý Phật pháp cho tăng ni phật tử.

Như vậy, kiến trúc và điện thờ chùa Sơn Dược ngày nay thể hiện quá trình tu sửa, xây dựng, trùng tu nhiều lần, là sự kết tập điện thần của ngôi chùa qua các mốc thời gian trùng tu liên quan… Mặt khác, lịch sử ngôi chùa còn là sự phản chiếu lịch sử đời sống văn hóa tín ngưỡng làng xã Việt nói chung, xã Bình Thuận nói riêng, nhất là giai đoạn từ sau năm 1954 đến nay.

2. Lễ hội

Chùa Sơn Dược không chỉ là nơi ban truyền Phật pháp, mà còn là nơi diễn ra rất nhiều hoạt động ý nghĩa mang tính cộng đồng cao. Hàng năm, cứ đến ngày mùng 5 tháng giêng, sư trụ trì  và các vị tăng ni, phật tử cùng với người dân xã Bình Thuận lại tổ chức lễ hội rước kiệu cầu chúc cho một năm mới an lành, hạnh phúc.

Công việc chuẩn bị lễ hội rước kiệu được diễn ra ngay từ trong năm, vào khoảng giữa tháng chạp, tức là trước ngày lễ gần 1 tháng. Việc đầu tiên phải chọn các gia đình chứa kiệu cho năm mới, họ phải chuẩn bị lễ vật cúng tế, những gia đình này đại diện cho cả dân làng và địa phương dâng lễ vật để cúng gia tiên, đức Phật và thành hoàng làng. Trong lễ hội, có 2 kiệu được rước đó là kiệu ông và kiệu bà. Theo quan niệm của người dân từ xa xưa lưu truyền lại, lễ vật trên kiệu ông là để cúng thành hoàng làng, còn lễ vật của kiệu lễ là để dâng lên cúng đức Phật. Không phải gia đình nào cũng được may mắn trở thành nhà chứa kiệu, phải là những nhà có nề nếp, gia phong, con cái ngoan ngoãn, phẩm chất đạo đức tốt. Đặc biệt, gia đình có cụ già cao tuổi không còn sống được bao lâu nữa thì được xét ưu tiên hàng đầu và con cháu phải đến chùa gặp Ban Hậu tự xin chứa kiệu từ trong năm. Theo quy định, chỉ có 3 xóm được xin chứa kiệu đó là xóm Đình, xóm Chùa và xóm Trại quay vòng, mỗi năm một xóm. Tuy nhiên, trong một xóm có nhiều gia đình xin được chứa kiệu, vì vậy các cụ già trong xóm phải họp và chọn ra một gia đình xứng đáng nhất.

Khâu tuyển chọn người rước kiệu cũng được diễn ra theo những quy định và những chuẩn mực riêng. Những nam thanh, nữ tú được tuyển chọn phải là những người đang ở độ tuổi mười tám đôi mươi, có chiều cao bằng nhau, có sức khỏe, ngoan ngoãn, có phẩm chất đạo đức tốt, chưa xây dựng gia đình. Việc tuyển chọn được diễn ra từ trong năm, theo tục lệ, mỗi xóm sẽ tuyển một người, có thể là nam hoặc nữ, nếu xóm nào không có sẽ nhường lại cho các xóm khác, riêng xóm chứa kiệu được chọn hai người. Các cụ già trong xóm sẽ là người chọn và trình lên để thày trụ trì xét duyệt. Sau đó, đến sáng ngày mùng 4 tết, khoảng 8 giờ, tất cả đội khiêng kiệu phải có mặt ở chùa để cùng các tăng ni phật tử quét dọn, lau chùi tượng Phật, điện thờ hoặc cùng tham gia viết công đức…

Sáng ngày mùng 5 tháng giêng, khi trời mới tờ mờ sáng, tiếng chuông chùa báo hiệu một mùa lễ hội bắt đầu, hứa hẹn một năm mới với mọi điều an lành và hạnh phúc. Người dân trong xã Bình Thuận dậy từ rất sớm để sửa soạn đến chùa dâng hương cầu may, làm tốt công tác chuẩn bị đón kiệu ông, kiệu bà được rước từ nhà chứa kiệu về chùa. Đúng 12 giờ trưa, khi thánh đã yên vị trong chùa (theo quan niệm của người dân), kiệu ông và kiệu bà bắt đầu tiến vào sân chùa. Cách rước kiệu không đi chậm rãi, trang trọng mà cô gái, chàng trai khiêng kiệu lao vun vút về mọi hướng tiến thẳng vào đám đông khiến mọi người nghiêng ngả chạy tứ phía. Người dân nơi đây cho rằng đó chính là lúc thánh hiển linh vào các cỗ kiệu. Có những lúc kiệu không tiến, không lùi mà đứng tại chỗ quay tròn, Thánh hiển linh khiến các cô gái khiêng kiệu khuỵu xuống. Tuy những người khiêng kiệu mồ hôi đầm đìa, khuôn mặt tái xanh, miệng thở hổn hển nhưng 2 chiếc kiệu vẫn chạy khắp nơi. Chừng 30 phút, do thánh thương các cô gái sức khỏe yếu nên kiệu bà được vào điện thờ trước, còn kiệu ông phải trình diễn thêm 30 phút nữa mới được vào đặt cùng với kiệu bà. Lúc này, gia đình nhà chứa kiệu đã hoàn thành xong phần dâng lễ của mình, họ trở về nhà quây quần bên nhau dùng bữa cơm đầu năm trong không khí vui tươi và phấn khởi. Họ cho rằng đã hoàn thành xong một việc lớn và trọng đại trong đời cùng với đó là sự hy vọng, tin tưởng vào một năm mới gặp nhiều điều may mắn, an lành. Đúng 13 giờ, khi tiếng chuông chùa vang lên là lúc kết thúc lễ hội, hứa hẹn một năm mới tốt đẹp, người dân vào điện thờ thắp hương cầu khấn, sau đó họ ra về trong tràn đầy niềm vui.

Lễ hội chùa Sơn Dược hiện nay đã có nhiều biến đổi. Đó là hiện tượng phổ biến đã và đang diễn ra ở nhiều di tích và lễ hội khác ở nước ta, bởi lẽ qua độ dài của thời gian, không có một lễ hội nào có thể giữ được sự nguyên bản từ khi xuất hiện. Tùy từng thời điểm, hoàn cảnh lịch sử, không gian khác nhau nên cũng có những thay đổi khác nhau.

 Theo các cụ trong làng kể lại, lễ hội chùa Sơn Dược đã có từ rất lâu đời, không ai biết là từ bao giờ, lễ hội diễn ra rất lớn và trang nghiêm, có đủ phần lễ và phần hội. Tuy nhiên, không ai nhớ được khi còn đình, lễ rước kiệu được diễn ra ở đình hay ở nhà chứa  kiệu, chỉ biết nó đã như vậy là do đời xưa truyền lại, các thế hệ về sau cứ như vậy thực hiện được. Tuy nhiên, có thể lễ rước kiệu thành hoàng từ nhà chứa kiệu diễn ra sau khoảng những năm 1968 trở lại đây, tức là sau khi đình làng bị sập và dân làng chuyển bát hương của thành hoàng vào gửi tại chùa cho nên từ đó đến nay dân làng mới có tục rước kiệu về chùa.

Trong phần lễ, đồ cúng, lễ cúng chủ yếu là mâm cúng mặn, tức là có đủ xôi và gà luộc. Phần cúng tế là do thày cúng (dân làng vẫn quen gọi là thày phù thủy) trong làng đảm nhận. Khi kiệu được đưa vào đền thờ, thày cúng cùng các cụ trong làng tiến hành cúng tế, tất nhiên chỉ cúng sau khi kiệu được rước về chùa chứ trước đó chỉ cúng lễ ở nhà chứa kiệu.

Phần hội diễn ra trong không khí rất vui vẻ và phấn khởi, có những trò chơi được tổ chức tại sân chùa nơi kiệu ông và kiệu bà trình diễn. Khoảng trước những năm 80 TK XX, sân chùa vẫn chỉ là sân đất chưa lát gạch như bây giờ và cũng không có ban tổ chức nên hầu hết vẫn là những trò chơi mang tính tự phát của người dân địa phương như đấu vật hay kéo co…

Trong khoảng thời gian có chủ trương cấm mê tín dị đoan, lễ hội không được rước kiệu do không được phép của chính quyền. Họ không tổ chức khiêng kiệu mà chuyển sang xếp đồ lễ vào quang gánh, gánh lên vai và rước về chùa. Điều đó cho thấy, lễ hội chùa Sơn Dược có tầm quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đối với người dân địa phương. Nhờ vậy mà nó vẫn trường tồn với thời gian và ăn sâu vào tiềm thức của từng người dân từ khi mới sinh ra đến lúc mất đi.

Từ năm 2010, khi sư Thích Thanh Nhàn được chính thức trụ trì tại chùa Sơn Dược, mọi sinh hoạt tín ngưỡng ở chùa cũng đổi mới. Ngay cả đồ cúng trong lễ rước kiệu cũng có sự thay đổi, trước đây, đồ lễ ở kiệu ông thường được người dân địa phương cúng gà mặn, nhưng nay đã chuyển sang cúng gà chay, được làm bằng bột đỗ tương. Lúc đầu, nhiều người dân không đồng tình vì cho rằng từ xưa đến nay họ đều cúng gà mặn và đó cũng là đồ lễ không thể thiếu trong mâm cúng tổ tiên của người dân Đông Nam Á nói chung và người Việt Nam nói riêng. Sư trụ trì đã giải thích cho dân địa phương qua các bài giảng về Phật pháp ứng dụng. Từ đó, người dân địa phương dần hiểu ra và tiếp thu.

3. Vai trò của di tích và lễ hội chùa Sơn Dược trong đời sống

Trong cuộc sống hiện nay, khi nền kinh tế đang từng bước phát triển và hội nhập quốc tế, người dân có nhiều cơ hội làm ra nhiều của cải vật chất cho gia đình và xã hội, khi người ta đã cảm thấy no đủ có phần dư thừa về vật chất thì họ bắt đầu quan tâm tới các nhu cầu khác trong đời sống tinh thần, trong đó có nhu cầu hướng về một thế giới riêng, thế giới tâm linh của tôn giáo, tín ngưỡng. Mọi người được nghe các bài giảng về kinh Phật, răn dạy mọi người phải biết sống yêu thương, hướng thiện. Hàng năm, ngoài những ngày lễ lớn ở chùa Sơn Dược còn diễn ra nhiều hoạt động có ý nghĩa thiết thực. Ngày chủ nhật tuần thứ nhất và tuần thứ ba của tháng đều tổ chức các khóa tu ứng dụng, mọi người đến rất đông, nghe sư thày giảng kinh Phật, những bài giảng được áp dụng và đi sâu vào thực tế, khuyên người ta sống tích đức, xa rời những thói hư tật xấu trái với đạo đức, giáo lý của đức Phật.

Lễ hội chùa Sơn Dược là nơi mọi người giao lưu và sáng tạo văn hóa, không phân biệt giới tính, tuổi tác, già trẻ hay gái, trai. Tất cả đều hòa quyện với nhau trong sự đồng cảm và tin yêu, họ chia sẻ với nhau để phần nào vơi đi những lo toan, bộn bề của cuộc sống. Lễ hội do Ban quản lý di tích và sư trụ trì cùng người dân địa phương tự tổ chức hàng năm, mọi thứ dường như không cần phải có kịch bản chi tiết, các xóm tự họp với nhau và phân việc cụ thể cho từng xóm, mỗi người một công việc, ai cũng phấn khởi vui vẻ nhận lời và làm tốt công việc được giao.

Lễ hội diễn ra trong không khí vui vẻ, tôn trọng lẫn nhau, người dân hòa mình trong niềm vui chung, cùng nhau hò reo, chạy mỗi khi hai kiệu lao tới, một không khí tưng bừng của ngày xuân. Mọi người như tìm lại được tuổi thanh xuân thời thơ ấu của mình, các em nhỏ rất thích khi được ông bà cha mẹ cho đi chơi, cũng hòa mình trong tiếng cười vui của người lớn. Điều đó thể hiện sự đoàn kết, sự hòa hợp giữa người với người, là cơ sở cho niềm tin và sự may mắn khi đến với lễ hội.

Lễ hội chùa Sơn Dược còn là nơi giữ gìn và nuôi dưỡng những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc địa phương. Người dân huyện Đại Từ nói chung và người dân xã Bình Thuận nói riêng dù có đi đâu, về đâu hay ở một vùng có xa xôi đến thế nào đi nữa, họ luôn nhớ tới quê hương, nơi sinh thành và nuôi dưỡng mình trưởng thành. Cứ mỗi dịp tết đến xuân về, họ lại tụ tập nhau, cùng nhau dâng lễ và cầu nguyện, cùng nhau thưởng ngoạn không khí náo nhiệt của ngày xuân. Lễ hội có có vai trò củng cố niềm tin tôn giáo, tín ngưỡng, đối với gia đình chứa kiệu, là đại diện cho cả dân làng sắp và dâng lễ vật lên thành hoàng, họ cầu chúc cho gia đình và mọi người gặp nhiều may mắn trong năm, có sức khỏe, mưa thuận gió hòa, con cái học hành ngoan ngoãn và trưởng thành.

Di tích và lễ hội chùa Sơn Dược mãi trường tồn với thời gian, không những là một địa chỉ tu tập mà còn là nơi sinh hoạt cộng đồng, bảo lưu những giá trị văn hóa truyền thống của người dân địa phương. Giá trị văn hóa - lịch sử, văn hóa - tâm linh sẽ khiến cho di tích và lễ hội tiếp tục tỏa sáng trong tình yêu và niềm sùng kính của các thế hệ người dân Đại Từ, Thái Nguyên.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 389, tháng 11-2016

Tác giả : NGUYỄN THANH TIẾN

;