Công nghiệp văn hóa với các dự án phát triển làng nghề vùng nông thôn

Du khách tham quan làng nghề đan đó Tất Viên, xã Thủ Sỹ (huyện Tiên Lữ, Hưng Yên) - Ảnh: baohungyen.vn

Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa đối với ngành Thủ công mỹ nghệ đang thu hút được ngày càng nhiều các hoạt động, dự án. Việc sáng tạo và gia tăng các ý tưởng giúp cho làng nghề hướng gần đến hoạt động có tính chuyên môn nghiệp vụ cao cũng như những kết nối mang tính hệ thống. Quá trình hội nhập cùng áp dụng công nghệ, cách thức vận hành quy trình sáng tạo và phân phối sản phẩm dịch vụ cũng dần trở nên phổ biến. Tuy nhiên, khi xét đến thế mạnh nguồn lực của địa phương trong môi trường kinh doanh khởi nghiệp có thể nhận thấy: hầu hết các bộ phận công việc diễn ra bên trong làng nghề tại các vùng nông thôn trên địa bàn cả nước ta vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, độ mở thị trường còn thấp... Nên chăng tại nhiều hoạt động dự án, các vấn đề như chính sách, nguồn tài chính, công tác đào tạo nhân lực cùng dịch vụ hỗ trợ cần nhận được sự quan tâm đúng mức? Quá trình nghiên cứu cùng những tư vấn chỉ rõ các bước, xây dựng cơ sở học thuật giúp các dự án khu vực làng nghề/ những nơi xa đô thị, có thể tham khảo định hướng cùng chuyên sâu trong mọi hoạt động phát triển nhằm phát huy hơn nữa những lợi thế của riêng mình.

Công nghiệp văn hóa tác động đến phát triển làng nghề

Tại các làng nghề với những sản phẩm mang tính truyền thống (như gốm sứ, thêu, dệt, đan lát, kim hoàn…) được đem ra khai thác thông qua hình thức khác nhau: trưng bày/ giới thiệu sản phẩm tại nhiều không gian khác nhau như hội chợ, du lịch và lễ hội. Cho đến nay, quy trình sản xuất cùng phân phối sản phẩm của ngành thủ công mỹ nghệ ở nước ta vẫn tồn tại dưới hai hình thức: làng nghề và cơ sở sản xuất. Nhưng phần lớn vẫn tập trung tại khu vực làng nghề, phải chăng thế mạnh ở đó là tận dụng được nguồn nguyên liệu dồi dào, lực lượng lao động gần gũi vì đa phần là người dân tại chỗ (đã phù hợp với những thói quen cuộc sống tại địa phương).

Tính số liệu sơ bộ với khoảng 2.790 làng nghề thủ công (1) trên cả nước, thì hằng năm thu hút đến hàng trăm ngàn lao động thường xuyên và tạo việc làm thêm cho hàng triệu nông dân lúc nông nhàn. Đánh giá thông qua mức phát triển thị trường và chất lượng sản phẩm, khẳng định hệ thống làng nghề đã có những đóng góp đáng kể, tác động đến việc nâng cao đời sống kinh tế, xã hội ở vùng nông thôn. Kể từ khi những chính sách mới (vào khoảng năm 1999) được thực hiện, thay vì phải thông qua các cơ quan tổ chức trung gian như trước đây thì chính phủ cho đã phép các doanh nghiệp thủ công của địa phương có thể tự tìm kiếm cơ hội, trực tiếp liên hệ xúc tiến thương mại trực tiếp với các nhà nhập khẩu nước ngoài, xuất khẩu nhiều mặt hàng. Xét đến lâu dài thì việc mở rộng thị trường đến nhiều quốc gia cũng cho thấy ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống Việt Nam cũng thật sự thích ứng với việc đa dạng hóa sản phẩm. Ngoài việc phục vụ thị trường nội địa rộng lớn cũng như du khách quốc tế đến Việt Nam, nhiều năm qua hàng thủ công mỹ nghệ vẫn luôn khẳng định vị thế và nằm trong Top 10 mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam. Đến nay, các sản phẩm của chúng ta đã có mặt tại 163 quốc gia và vùng lãnh thổ, với giá trị kim ngạch xuất khẩu khoảng 1,7 tỷ USD mỗi năm, chiếm gần 10% nhu cầu của thị trường toàn cầu. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam được thị trường quốc tế ưa chuộng bởi bên cạnh sự tinh tế, tài khéo của sản phẩm còn toát lên những nét đặc sắc, độc đáo của văn hóa dân tộc. Hoa Kỳ là một trong những thị trường tiêu thụ lớn nhất của Việt Nam với doanh số chiếm 35% kim ngạch xuất khẩu hằng năm. Bên cạnh đó là các thị trường khác như: Nhật Bản, Liên minh châu Âu (đặc biệt là Đức, Anh, Pháp, Hà Lan), Australia, Hàn Quốc... Ở khu vực châu Á, Việt Nam đứng thứ hai trong số các quốc gia xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, chỉ sau Trung Quốc. Chúng ta đang có cơ hội rất lớn để thúc đẩy tăng trưởng cũng như nâng cao vị thế của ngành hàng này trong bối cảnh các nhà nhập khẩu trên thế giới có xu hướng muốn tìm kiếm nguồn hàng từ các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam (2).

Để đạt được thành công và phát triển nền tảng thị trường sản phẩm dịch vụ với những kết quả tổng hợp nêu trên, thì việc tư duy cũng như áp dụng quy trình của ngành Công nghiệp văn hóa trong khâu sáng tạo và phân phối các sản phẩm dịch vụ đóng vai trò rất quan trọng. Cụ thể là việc xây dựng chiến lược thực hiện các dự án phải thực sự sáng tạo và có những bước đi cụ thể, giúp các nhà hoạch định cùng cơ quan quản lý có thể định lượng được giá trị, sức lao động và vốn mà mình đã đầu tư.

 Xây dựng quy trình và phát huy thế mạnh của hoạt động dự án

Làng nghề truyền thống đang chọn làm nơi khởi động cho những chương trình phát triển kinh tế ở nông thôn, các mô hình dự án có động lực mạnh mẽ thúc đẩy lên mọi tăng trưởng của xã hội. Đối với làng nghề thì các gia đình dòng tộc của cộng đồng dân cư làng xã vẫn phổ biến cách lưu giữ những bí quyết “cha truyền con nối” từ bao đời nay. Phát triển công việc theo mô hình dự án giúp cho sản phẩm làng nghề vừa có điều kiện kết nối thị trường mà cộng đồng từng địa phương lại bảo tồn và phát huy những nét tinh hoa về văn hóa trong cộng đồng và dòng tộc. Nhiều ý tưởng giải pháp xây dựng và phát triển làng nghề thực hiện thông qua dự án tạo nên những thành công nhất định, tính đặc biệt của sản phẩm sẽ thực hiện trên nền tảng quy định với những chính sách bảo tồn cũng như phát triển vốn văn hóa truyền thống. Hoạt động dự án rất cần đến sự thống nhất trong cơ chế quản lý, nó liên quan đến nhiều làng nghề cũng như nhiều lĩnh vực.

Hiệp hội làng nghề là nơi khuyến khích các hộ kinh doanh cá thể, các tổ chức đăng ký kinh doanh hướng theo loại hình doanh nghiệp. Với đầy đủ bộ máy quản lý cùng tư cách pháp nhân việc kinh doanh và xuất khẩu cũng trở nên bài bản, các nghĩa vụ với nhà nước được thực hiện một cách thuận lợi, từng công đoạn liên kết với nhau mà tạo nên sức mạnh.

Với bất cứ một làng nghề nào tại nông thôn khi mong muốn được phát triển bền vững và nâng tầm vị thế của mình đều hướng tới 2 mục tiêu cơ bản, đó là: “tập trung vào các nguồn lực” và “xúc tiến sản phẩm địa phương” (3).

Trong các khâu như phát triển sản xuất, xây dựng thương hiệu làng nghề rất cần đến sự hỗ trợ mang tính toàn diện để bảo đảm nguồn nhiên liệu, đào tạo lao động, đến quảng bá cho sản phẩm.

Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa đối với khu vực làng nghề vùng nông thôn đảm bảo 3 nguyên tắc: Sản phẩm mang tính địa phương nhưng phải tiến ra toàn cầu; Mỗi cơ sở phải phát huy tính tự lực và sự sáng tạo của mình; Nhân lực chất lượng và dồi dào hướng đến nguồn của địa phương. Cùng 6 mục tiêu cơ bản: Phát huy nét địa phương để tăng doanh thu cho sản phẩm; Giúp địa phương hiểu và biết nâng cao tính hiệu quả trong kinh doanh; Phát huy vốn tri thức của địa phương thông qua các hoạt động sáng tạo; Chú trọng tiềm năng khác tại địa phương như sinh thái và trải nghiệm nghề; Coi chất lượng và thương hiệu sản phẩm là niềm tự hào dân tộc; Quan tâm hoạt động thiết kế và phát triển sản phẩm nâng tầm quốc tế.

Tuy nhiên, khi các hoạt động của dự án được diễn ra thì đối với từng công việc cụ thể có liên quan đến các cá nhân và tổ chức doanh nghiệp thì việc đánh giá thành quả công việc cũng như đo lường chất lượng sản phẩm đang gặp nhiều hạn chế và khó khăn. Thiếu vắng sự hợp tác giữa các cơ quan có thẩm quyền cấp quốc gia và địa phương dễ khiến cho công tác triển khai dự án công nghiệp văn hóa tại các khu vực này gặp nhiều thách thức và khó phát huy được tối đa thế mạnh của mình. Trong dự án, việc tìm ra nét đặc thù của sản phẩm; nhận ra tính chất khác biệt công việc; hiểu và cân bằng các mức bình đẳng về thu nhập; gây tầm ảnh hưởng để chiếm lĩnh thị trường quốc tế… cũng chỉ tính toán và định lượng phần nào. Việc xây dựng dự án tại các làng nghề sẽ thu hút những nguồn đầu tư đáng kể, nó không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu các sản phẩm mang tính đặc thù của địa phương, mục tiêu phát triển các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống phải toát lên tính toàn diện, đó là vừa giới thiệu phát triển nhưng phải có tính kế thừa nét văn hóa lâu đời của địa phương như: các kiến thức truyền thống cùng với những kinh nghiệm mang tính dòng tộc truyền lại. Những dự án được tạo ra ở đây là để tạo ra sự hài hòa giữa phát triển kinh tế với việc phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống ngàn xưa của làng nghề. Dự án tạo ra cũng mang tính thực tế trong công tác định hướng phát triển làng nghề với các yếu tố cơ bản (như kỹ năng, kiến thức và các giá trị truyền thống).

Vấn đề đặt ra là: làm thế nào để các hoạt động dự án đó có thể tạo ra được những mối liên kết, hữu hình và định lượng? nhìn nhận ý nghĩa cùng những giá trị đem lại, giúp cho làng nghề có thể thực sự lớn mạnh từ một nguồn thu bền vững?

Tại một số quốc gia phát triển khu vực châu Á (như Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc…), làng nghề thủ công truyền thống luôn thể hiện thế mạnh như: giàu nguồn nguyên liệu từ tự nhiên; luôn có nguồn nhân lực tại chỗ dồi dào chất lượng (với nhiều trải nghiệm về kỹ năng cũng như kiến thức độc đáo); có bản sắc nên nhanh chóng khẳng định vị thế sản phẩm của mình. Nằm tại nông thôn, làng nghề hướng đến các hoạt động sáng tạo, định vị giá trị bản thân, điều này nhắc nhở đến các cơ sở của địa phương quan tâm nhiều hơn nữa đến vai trò và tầm quan trọng của các dự án phát triển. Bên cạnh việc phát huy, nâng cao tính tự lực, tự quản nỗ lực vươn lên của cộng đồng, rất cần đến sự quan tâm của cơ quan quản lý các cấp từ địa phương đến Chính phủ.

 Quy trình với một số các hoạt động cơ bản của dự án

Với những dự án hướng được “tiếng nói” của nhiều cấp lãnh đạo từ trung ương đến các tỉnh thành tại địa phương, quy trình sẽ thể hiện tính thống nhất và sự xuyên suốt. Các vấn đề của dự án sẽ đi vào việc tìm hiểu bản chất quá trình của từng khâu/ từng công đoạn, đóng vai trò quan trọng liên quan tới từng hoạt động.

Giai đoạn 1: Lập kế hoạch

Đây là giai đoạn mở đầu có ý nghĩa ở mọi cấp thực hiện của dự án. Mục tiêu của giai đoạn này là truyền thông và giáo dục. Ở đó nhấn mạnh đến ý nghĩa của công tác xây dựng, sự hợp tác và tinh thần làm việc mang tính tập thể. Trong giai đoạn này sẽ triển khai 3 hoạt động: Hình thành mạng lưới các cơ quan điều phối của Chính phủ; Liên hệ, gia tăng tính gắn kết với cộng đồng địa phương; Giáo dục cho cộng đồng biết về tầm quan trọng cũng như các nguyên tắc cơ bản của dự án.

Giai đoạn 2: Xác định vị trí sản phẩm

Đây là giai đoạn định vị rõ sản phẩm, xác định xem các sản phẩm đó là thuộc ngành nghề nào trong lĩnh vực nghề thủ công truyền thống. Phạm vi của sản phẩm thủ công thường khá rộng, chia theo 5 nhóm: nhóm sản phẩm thuộc thực phẩm và đồ uống; nhóm sản phẩm thuộc hàng dệt may; nhóm sản phẩm thuộc hàng đan bện; nhóm sản phẩm thuộc hàng chạm khắc (đồ điêu khắc, đồ chạm bạc); và nhóm sản phẩm thuộc các sự kiện văn hóa, nghệ thuật (các sự kiện văn hóa ở địa phương, lễ hội, các điểm du lịch ở địa phương, di tích lịch sử và dịch vụ du lịch).

Những cấp quản lý ở các vị trí ủy ban trực tiếp trong giai đoạn này luôn có trách nhiệm trong công tác quản lý điều hành từng nội dung công việc cũng như phân tích và chỉ ra những nét đặc trưng, xác định cho được tiềm năng tiêu thụ của sản phẩm rồi xếp nó theo vị trí thứ bậc.

Nhóm các sản phẩm sau khi được tổng hợp lại rồi sẽ hướng đến 3 cấp độ cụ thể: cấp độ 1 là nhóm sản phẩm có tiềm năng trong việc xuất khẩu; cấp độ 2 là nhóm sản phẩm có sức tiêu thụ rộng rãi ở thị trường trong nước; và cấp độ 3 là nhóm sản phẩm chỉ phù hợp và tiêu thụ ngay tại thị trường địa phương.

 Giai đoạn 3: Nâng tầm chất lượng sản phẩm

Xác định khi một sản phẩm đóng vai trò xuất khẩu sẽ đáp ứng cụ thể các nhu cầu về chất lượng, số lượng, cũng như những quy định nghiêm ngặt tiêu chuẩn quốc tế. Lưu ý đến kết quả nghiên cứu thị trường sản phẩm diễn ra trước đó, các chỉ số tổng hợp sẽ mang tính dự báo. Ở giai đoạn này công việc bao gồm 4 mảng hoạt động: Hoạt động quản lý các hoạt động; Hoạt động thiết kế sản phẩm; Hoạt động sản xuất chế tạo sản phẩm; Hoạt động đóng gói và lưu kho sản phẩm.

Đối với những gì đang diễn ra xoay quanh thị trường sản phẩm phải quan tâm đến 4 vấn đề: các sản phẩm dịch vụ được tạo ra có thể tồn tại như thế nào trên thị trường? tìm cơ sở và căn cứ để có thể định lượng được chính xác trào lưu thị hiếu của các kênh khách hàng? xem xét sự tồn tại của các loại hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa đang trực tiếp cạnh tranh với sản phẩm được chọn? điều kiện của thị trường và các yếu tố sản xuất?

Đồng thời cụ thể 8 mục tiêu: đầu tư hoàn thiện thiết kế sản phẩm; nâng cao chất lượng sản phẩm; tạo khả năng cạnh tranh trong marketing; giảm chi phí sản xuất; đáp ứng thị hiếu và sở thích của khách hàng; giúp tăng số lượng hàng bán; nâng cao giá trị gia tăng của hàng hóa cũng như tăng lợi nhuận; khuếch trương và nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường quốc tế.

Lưu ý rằng, thông qua ý tưởng thiết kế việc nghiên cứu kiểu dáng sẽ cho ra những sản phẩm cụ thể, đây cũng là giai đoạn tiêu tốn tài chính nên cần nhiều đến sự hiểu biết đồng cảm và hỗ trợ cụ thể. Vì sản phẩm kết tinh bởi giá trị truyền thống và óc sáng tạo nên ý thức trách nhiệm sự bảo vệ thông qua luật sở hữu trí tuệ.

Giai đoạn 4: Mở rộng thị trường sản phẩm

Giai đoạn này hướng đến 2 mục tiêu chính: xây dựng chiến lược tiếp thị sản phẩm đối với thị trường trong nước và quốc tế; lập kế hoạch về công tác hậu cần và hình thành các kênh phân phối.

Trong giai đoạn này nội dung dự án sẽ cụ thể ở 4 hoạt động chính: Hoạt động quan hệ công chúng; Hoạt động quảng cáo sản phẩm; Hoạt động triển lãm sản phẩm; Hoạt động phát triển thị trường sản phẩm.

Các hoạt động trên được tiến hành thông qua nhiều phương tiện thông tin đại chúng. Việc lựa chọn sản phẩm tham dự các triển lãm (ở trong hay ngoài nước) bằng nhiều cách khác nhau sẽ làm tăng tính ấn tượng cũng như lòng tin của công chúng khách hàng vào sản phẩm, nét văn hóa đặc trưng tiêu biểu của địa phương được công nhận. Trước khi các kênh mua bán sản phẩm được mở ra thì ngay tại các tỉnh thành địa phương, mô hình trung tâm tiến hành công tác quảng bá sản phẩm mẫu giới thiệu các mẫu thiết kế tinh xảo, cùng những bộ sản phẩm mang đậm nét riêng của dự án, điều này sẽ làm các cá nhân đơn vị thực hiện việc gia công sản xuất thực sự yên tâm khi nghĩ đến thị trường tiêu thụ. Rất cần những hỗ trợ chính sách cùng nguồn tài trợ đáng kể từ ngân sách Chính phủ bởi nó đóng vai trò quan trọng thực hiện tốt cho giai đoạn mở rộng thị trường này.

Giai đoạn 5: Đánh giá kết quả

Mục tiêu của giai đoạn này là xem xét tính hiệu quả của từng hoạt động/ Hoạt động “đánh giá kết quả” sẽ đóng một vai trò quan trọng đối với bất kỳ một dự án văn hóa, nghệ thuật nào.

Đối với một dự án văn hóa, nghệ thuật, thống kê các kết quả mang lại từ một sản phẩm dịch vụ thông qua việc đánh giá định lượng rất khó khăn. Khi giá trị được định lượng, các chỉ số văn hóa sẽ cụ thể mà bộc lộ thế mạnh cho định hướng và phát triển. Giải pháp trong “công cụ thống kê của Bộ chỉ số văn hóa/ 2030” (4) có thể kể đến thể hiện tính rõ ràng của quá trình vận hành cũng như thực hiện công tác định lượng dựa trên các “chỉ số văn hóa”. Những con số cụ thể đó mới thật sự thiết thực giúp cho việc tổng hợp có kết quả cụ thể, mới nhắm được sự quan tâm đầu tư cũng như hỗ trợ từ phía Chính phủ cho những dự án ở các mức tiếp theo. Các chỉ số đánh giá đề cập đến các hoạt động cơ bản như: phân tích trào lưu, thị hiếu; phát triển thị trường; thiết kế hình ảnh, mẫu mã bao bì sản phẩm.

Lưu ý, trong giai đoạn này cần tập trung đến những phần việc chính yếu sau: Công tác quản lý luôn đồng nhất với việc kiểm định và đóng gói, sẽ giúp cho sản phẩm được lưu thông một cách hiệu quả; Việc bảo quản, kiểm kê, lưu kho và giao hàng hóa thực hiện an toàn đúng hẹn; Sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có để xây dựng một sản phẩm đậm nét địa phương; Đẩy mạnh công tác tiếp thị, giới thiệu hiệu quả sản phẩm chất lượng tới khách hàng.

Thay lời kết

Việc nắm bắt những cơ hội cũng như gia tăng tìm kiếm sự quan tâm của chính quyền các cấp sẽ làm thay đổi diện mạo cho nhiều làng nghề thuộc khu vực vùng nông thôn/ nơi do chưa kịp nhìn nhận thì việc dễ bị bỏ quên là điều có thể. Khi phát triển mà được đi vào quy củ thì mô hình dự án cùng hoạt động của các vấn đề nêu trên sẽ đáp ứng đủ các điều kiện, từ đó mới có thể thực hiện việc: quản lý, khuyến khích, tìm cách hỗ trợ và ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào quá trình vận hành sản xuất. Lúc đó thì ngay cả việc cơ giới hóa một số các công đoạn (trong sản xuất thủ công) cũng vẫn không làm ảnh hưởng đến các giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ cũng như tính truyền thống của sản phẩm. Đáng chú ý hơn cả là các dự án liên quan đến bảo tồn và phát triển sẽ giúp cho làng nghề truyền thống càng thêm vững vàng bởi các công trình, như việc hoàn thiện hệ thống bảo tồn, hỗ trợ xây dựng các phòng trưng bày, bảo tàng nghề với khu vực mô phỏng/ trình diễn quy trình nghề truyền thống, giúp lưu giữ hồ sơ dữ liệu, kết nối đến các giá trị sản phẩm. Gần đây công tác bảo tồn cũng đề cập đến nhiều chính sách ưu tiên, hướng sự tập trung và đầu tư vào các vùng trọng điểm, như trường hợp 7 làng nghề thuộc Danh mục làng nghề truyền thống tiêu biểu do HĐND thành phố ban hành tại Nghị quyết số 24/2013/NQ-HĐND ngày 7-12-2013 tập trung xây dựng các không gian hỗ trợ xúc tiến thương mại sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ. Nhìn rộng tới các thông tin tiếp cận một số quốc gia châu Á, giúp chúng ta thấy ở đó (cách làm của họ) giúp chúng ta tìm đến sự tương đồng và rút ra nhiều bài học bổ ích. Nhìn lại như với trường hợp dự án “một làng nghề - một sản phẩm”(5) (One Tambon, One Product - OTOP) khởi xướng vào năm 2001 của chính phủ Thái Lan, việc đề cập đến sự quan tâm toàn lực, những liên kết hiệu quả từ phía chính phủ, các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể, khu vực tư nhân và cộng đồng dân cư để có thể khai thác hiệu quả nguồn nội lực từ cộng đồng, chất lượng sản phẩm gắn liền với hình ảnh, tên tuổi của mình với thị trường sản phẩm thương hiệu và uy tín toàn cầu… Việc xây dựng dự án đối với làng nghề được lựa chọn, phát triển việc quảng bá, chiến dịch marketing sẽ kích thích cung cầu ở nhiều cấp độ, định vị được nét đặc trưng mà làm nên nét tinh hoa, giá trị cho một sản phẩm.

______________

1. Nguyễn Kiều Vân, Làng nghề thủ công truyền thống đã có một số tín hiệu tích cực, Kỷ yếu Hội thảo Công nghiệp văn hóa Việt Nam - thực trạng và giải pháp, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam - Bộ VHTTDL, 2009.

2. Thế Công, Để thủ công mỹ nghệ trở thành “mũi nhọn” ngành công nghiệp văn hóa: Phải có những bước đi kiên quyết để tạo đột phá, bvhttdl.gov.vn, 10-10-2022.

3. Nguyễn Hữu Khải, Đào Ngọc Tiến, Thương hiệu hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội, tr.120.

4. Nguyễn Thị Thu Phương (chủ biên), Định vị công nghiệp văn hóa trong phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.305.

5. Phạm Bích Huyền - Đặng Hoài Thu, Các ngành công nghiệp văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.150.

Ths NGUYỄN VĂN TRUNG

Nguồn: Tạp chí VHNT số 566, tháng 4-2024

;