Bảo tồn và phát huy giá trị trang phục truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay

Dưới tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và bùng nổ thông tin, đời sống văn hóa của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam đang đứng trước không ít thách thức. Trong dòng chảy ấy, trang phục truyền thống - một biểu trưng quan trọng của bản sắc tộc người, ngày càng chịu sức ép lớn từ sự giao thoa, du nhập văn hóa ngoại lai. Không ít phong tục, tập quán, trong đó có tập quán ăn mặc gắn với đời sống thường nhật, đang dần phai nhạt, thậm chí đứng trước nguy cơ mai một. Chính vì vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa nói chung, giá trị trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số nói riêng đã và đang trở thành vấn đề cấp thiết, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, các cơ quan chuyên môn và đặc biệt là chính cộng đồng, những “chủ thể văn hóa” của di sản.

Mỗi dân tộc đều mang trong mình những sắc thái văn hóa riêng, thể hiện qua ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng, lễ hội và đặc biệt là trang phục truyền thống. Những bộ váy áo không chỉ có giá trị thẩm mỹ mà còn hàm chứa trong đó lịch sử tộc người, tri thức dân gian, thế giới quan, nhân sinh quan và mối quan hệ hài hòa giữa con người với tự nhiên. Nhận thức rõ điều này, trong những năm qua, hệ thống quản lý văn hóa từ trung ương đến địa phương đã có nhiều nỗ lực nhằm phát hiện, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều lễ hội tín ngưỡng dân gian được phục dựng, các liên hoan văn hóa, văn nghệ, hội thi, hội diễn, trình diễn trang phục truyền thống được tổ chức thường xuyên hơn, tạo điều kiện để các giá trị văn hóa tộc người được “sống” trong không gian đương đại.

Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa và tác động của công nghệ hiện đại đang làm thay đổi sâu sắc đời sống sinh hoạt của đồng bào. Trang phục truyền thống dần bị thay thế bởi quần áo công nghiệp tiện dụng, rẻ tiền; nghề dệt, thêu thủ công đứng trước nguy cơ thất truyền khi lớp trẻ ít mặn mà kế nghiệp. Như nhận định của một cán bộ quản lý văn hóa dân tộc, bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tác động mạnh mẽ tới lĩnh vực văn hóa, trong đó có văn hóa các dân tộc thiểu số. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách phải tìm ra những cách tiếp cận phù hợp để bảo tồn di sản trong đời sống hiện đại, tránh tình trạng bảo tồn hình thức, tách rời cộng đồng.

Nghề thêu, dệt là một trong những nét văn hóa hấp hẫn

Muốn giữ gìn và phát huy giá trị trang phục truyền thống một cách bền vững, trước hết chính đồng bào phải nhận thức được đây là tài sản văn hóa quý giá, là niềm tự hào của tộc người mình. Song song với đó, việc bảo tồn cần gắn chặt với sinh kế, với đời sống kinh tế của người dân. Khi trang phục truyền thống và các nghề thủ công liên quan như dệt, thêu, nhuộm vải có thể tạo ra thu nhập, giải quyết việc làm, thì di sản mới thực sự có “đất sống”. Dệt thổ cẩm, vì thế, không chỉ đơn thuần là làm ra váy, áo mà còn là quá trình lưu giữ ký ức văn hóa, khẳng định bản sắc cộng đồng qua từng hoa văn, màu sắc. Trải qua thời gian, nghề dệt và trang phục truyền thống vẫn hiện diện trong đời sống sinh hoạt, trong các nghi lễ, lễ hội, trở thành điểm nhấn văn hóa độc đáo của mỗi tộc người.

Trong không gian lễ hội và các sự kiện văn hóa - du lịch, trang phục truyền thống luôn mang đến những sắc màu sinh động, góp phần tạo nên sức hấp dẫn riêng biệt. Nội dung trình diễn, thi trang phục truyền thống thường xuyên được đưa vào các liên hoan, hội thi, không chỉ nhằm tôn vinh vẻ đẹp văn hóa mà còn là sự động viên, khích lệ để nghề thủ công truyền thống, vốn gắn bó mật thiết với phụ nữ dân tộc thiểu số được duy trì và phát triển. Việc mở các lớp dạy nghề dệt, thêu, may trang phục truyền thống tại cộng đồng vì thế được xem là một trong những giải pháp thiết thực, giúp di sản được trao truyền trực tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Trong hành trình ấy, vai trò của nghệ nhân dân tộc thiểu số mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Họ vừa là thành viên của cộng đồng, vừa là những người nắm giữ tri thức, kỹ năng, bí quyết nghề truyền thống - những “báu vật nhân văn sống” của di sản văn hóa. Chính nghệ nhân là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là người giữ “lửa” để trang phục truyền thống không bị lãng quên. Nhận thức được điều đó, Bộ VHTTDL đã có nhiều chính sách, chương trình cụ thể nhằm tôn vinh, hỗ trợ nghệ nhân, đồng thời đưa giá trị trang phục truyền thống đến gần hơn với công chúng trong nước và quốc tế.

Năm 2022, lần đầu tiên Liên hoan trình diễn trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số phía Bắc được tổ chức trong khuôn khổ Tuần Đại đoàn kết dân tộc - Di sản Văn hóa Việt Nam. Sự kiện quy tụ 22 dân tộc đến từ 17 tỉnh, thành, tạo nên một không gian “khoe sắc” rực rỡ của trang phục truyền thống. Đây không chỉ là hoạt động văn hóa mang tầm quốc gia, mà còn thể hiện rõ sự quan tâm, đề cao giá trị di sản trang phục của Bộ VHTTDL, qua đó khơi dậy niềm tự hào, ý thức trách nhiệm của cộng đồng đối với di sản do cha ông để lại.

Thực tế từ các liên hoan, trình diễn ở nhiều địa phương cho thấy, dù điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, nhiều nghệ nhân vẫn bền bỉ bảo vệ và trao truyền di sản bằng niềm đam mê và lòng tự hào, không đòi hỏi lợi ích vật chất cho riêng mình.  Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 209/QĐ-BVHTTDL ngày 18-1-2019 phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, triển khai từ năm 2019 đến năm 2030. Đề án xác định rõ mục tiêu đưa trang phục truyền thống trở lại đời sống thường nhật của đồng bào, nâng cao ý thức bảo tồn, coi di sản vừa là động lực vừa là mục tiêu của phát triển bền vững.

Song song với đó, nhiều hoạt động tập huấn, nâng cao năng lực bảo tồn được tổ chức tại cơ sở, tiêu biểu như lớp tập huấn dành cho đồng bào Lô Lô ở Cao Bằng năm 2022. Thông qua các chương trình này, nhận thức của cộng đồng về giá trị trang phục truyền thống được nâng cao, khuyến khích việc khôi phục nghề thủ công, truyền dạy cho thế hệ trẻ, đồng thời tìm kiếm những giải pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương.

Cô Phùng Thị Kiều - 68 tuổi, dân tộc Dao Quần chẹt đến từ tỉnh Phú Thọ

Bên cạnh nghệ nhân, vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng cũng hết sức quan trọng. Họ là những “điểm tựa” tinh thần, là sợi dây níu giữ các yếu tố bản địa trước những biến động của đời sống hiện đại. Như lời Thứ trưởng Bộ VHTTDL Trịnh Thị Thủy từng nhấn mạnh, chính những nghệ nhân, già làng, trưởng bản là hạt nhân quan trọng trong việc vận động, trao truyền giá trị văn hóa cho con em và cộng đồng. Câu chuyện của nghệ nhân Phùng Thị Kiều, người Dao Quần chẹt ở Phú Thọ , với ký ức gắn bó cả đời cùng vải vóc, nhuộm chàm, thêu thùa, là minh chứng sinh động cho sức sống bền bỉ của trang phục truyền thống khi được gìn giữ trong gia đình và cộng đồng.

Tuy nhiên, để di sản không chỉ tồn tại trong ký ức hay không gian lễ hội, cần có những giải pháp căn cơ, lâu dài, trong đó giáo dục được xem là chìa khóa quan trọng. Thông qua nhà trường, học sinh được trang bị kiến thức, hình thành niềm tự hào khi khoác lên mình trang phục truyền thống. Thực tế tại một số địa phương như xã Ba Chẽ (Quảng Ninh) cho thấy, việc vận động học sinh mặc trang phục dân tộc trong các dịp lễ, thậm chí trong sinh hoạt thường ngày, đã góp phần lan tỏa tình yêu và ý thức gìn giữ di sản ngay từ thế hệ trẻ.

Những trăn trở của các nhà nghiên cứu như TS Trần Hữu Sơn  khi chứng kiến người trẻ lúng túng trong việc mặc trang phục dân tộc mình, càng cho thấy sự cần thiết phải đưa trang phục truyền thống trở lại đời sống. Trang phục không nên chỉ xuất hiện trên sân khấu hay trong lễ hội, mà cần hiện diện trong sinh hoạt hằng ngày, gắn với du lịch, với hình ảnh điểm đến, tạo nên nét riêng biệt không thể trộn lẫn.

Như ông Hà Văn Hiền, nghệ nhân dân tộc tày ở Cao Bằng, dù tuổi đã cao nhưng lúc nào cũng đau đáu, trăn trở lo sợ những nét đẹp của dân tộc mình sẽ bị mai một trong nay mai. Ông cho rằng, để mạch nguồn văn hóa dân tộc không ngừng chảy, phụ thuộc vào chính những con người của chủ thể văn hóa đó. Ngoài việc trao truyền giữa các thế hệ thì những chủ nhân văn hóa, đặc biệt là thế hệ trẻ người dân tộc cần phải hiểu về nó và hơn hết phải có sự tự hào. Nhưng tự hào thôi chưa đủ, mà phải có những hành động cụ thể. Trang phục dân tộc phải hiện diện trong cuộc sống hằng ngày chứ không chỉ để biểu diễn trên sân khấu hoặc trong các mùa lễ hội như vẫn thường thấy.

Tăng cường giới thiệu các hoạt động trải nghiệm về trang phục truyền thống, kết hợp với những hoạt động liên quan đến các loại hình du lịch văn hóa cũng là biện pháp thiết thực giữ gìn và phát huy giá trị trang phục truyền thống của đồng bào DTTS

Trong bối cảnh đó, du lịch văn hóa được xem là một hướng đi hiệu quả, vừa góp phần bảo tồn di sản, vừa tạo sinh kế cho cộng đồng. Khi trang phục truyền thống trở thành sản phẩm du lịch, là nội dung trải nghiệm, người dân sẽ chủ động hơn trong việc gìn giữ, phát huy giá trị. Những định hướng khai thác gắn với du lịch cộng đồng, phát huy giá trị hoa văn, kỹ thuật trang trí, đào tạo kỹ năng giới thiệu, trình diễn, kết nối tour tuyến và đẩy mạnh truyền thông… đều nhằm hướng tới mục tiêu kép: bảo tồn văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội.

Cùng với đó, việc tăng cường tuyên truyền, quảng bá trên các phương tiện truyền thông đại chúng, trong điện ảnh, trên nền tảng số; xây dựng chính sách ưu đãi cho nghệ nhân tiêu biểu; phối hợp triển khai các dự án bảo tồn gắn với chương trình mục tiêu quốc gia phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là những giải pháp cần được thực hiện đồng bộ. Khi các chính sách đi vào thực chất, có sự tham gia tích cực của cộng đồng, di sản mới thực sự được “đánh thức” và lan tỏa.

Có thể khẳng định, bảo tồn và phát huy giá trị trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số là một hành trình dài, nhiều thách thức nhưng vô cùng cần thiết. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của các cơ quan chuyên môn chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với cộng đồng - nơi di sản được sinh ra, tồn tại và trao truyền. Chính đồng bào các dân tộc thiểu số, với vai trò là “chủ thể văn hóa”, sẽ quyết định sức sống và tương lai của trang phục truyền thống trong dòng chảy hội nhập hôm nay.

Bài, ảnh: NGÔ HUYỀN

 

;