Di sản văn hóa cồng chiêng: Thách thức bảo tồn và hội nhập

Đắk Lắk - Tây Nguyên đang chuẩn bị kỷ niệm 20 năm Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO ghi danh Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Nhìn lại hai thập kỷ đó, ngành Văn hóa địa phương nhận thấy, vẫn còn rất nhiều thách thức đặt ra.

Định hình tiêu chí bảo tồn

Dù chưa có đánh giá toàn diện về kết quả 20 năm được công nhận di sản phi vật thể nhân loại, ngành Văn hóa Đắk Lắk cũng cơ bản nhận diện rõ các tiêu chí đã định hình đối với văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Ông Thái Hồng Hà, nguyên Giám đốc Sở VHTTDL Đắk Lắk chia sẻ, trải qua các thế hệ lãnh đạo và quản lý trực tiếp, di sản văn hóa cồng chiêng đã trở thành một trụ cột quan trọng trong văn hóa bản địa, ngày càng được củng cố.

Có thể nhận ra bốn tiêu chí lớn, mà trong các hoạch định, chương trình triển khai công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng của tỉnh Đắk Lắk đều đặt ra. Đó là thu thập lưu giữ, duy trì văn hóa vốn có; phục dựng, giáo dục các thế hệ nắm bắt tinh hoa; lan tỏa hoạt động di sản cùng cộng đồng, bồi dưỡng các nhân tố trẻ, sáng tạo mới; và số hóa, lưu trữ giữ gìn các thành tựu di sản trên nền tảng những ứng dụng công nghệ mới.

Ông Thái Hồng Hà nhìn nhận, thực chất cả bốn định vị này, tùy vào mỗi thời điểm, yêu cầu thời sự, cũng có những thay đổi khác nhau, vận dụng ưu tiên khác nhau. Song nhìn chung, công tác phục dựng, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã dần vạch rõ đường đi, xác nhận đúng mức trách nhiệm các cơ quan, cấp thẩm quyền về quản lý, tôn tạo.

Trong đó, công tác sưu tra, sưu tầm, kiểm đếm các sản phẩm, vật phẩm liên quan đến diễn xướng, diễn tấu cồng chiêng đã được ưu tiên làm trước và duy trì ổn định. Thống kê đến năm 2024, toàn địa bàn Đắk Lắk đang có 1.603 bộ chiêng, trong đó có 1.178 bộ chiêng Ê Đê, 219 bộ chiêng M'nông, 118 bộ chiêng Jrai và 88 bộ chiêng khác. Cả tỉnh hiện còn 3.749 nghệ nhân nắm giữ các loại hình và 1.015 nghệ nhân trẻ tham gia hoạt động văn hóa cồng chiêng. Đây là những cơ sở quan trọng để địa phương đánh giá chính xác hiện trạng di sản, đề ra những phương hướng tiếp theo nhằm củng cố, phát huy các giá trị di sản.

Diễn tấu cồng chiêng trong các hoạt động lễ hội -  Ảnh tư liệu

Công tác truyền dạy văn hóa cồng chiêng cũng được địa phương chú trọng, nhắm đến từng địa bàn cơ sở và nhóm đối tượng để có các phương án tổ chức phù hợp. Đến nay, Đắk Lắk duy trì kinh phí tổ chức truyền dạy văn hóa di sản cồng chiêng trong cộng đồng bình quân 2 lớp/năm; có 6/15 đơn vị cấp huyện duy trì ngân sách tổ chức các lớp học thường xuyên. Trong 5 năm qua, đã có 15 lớp truyền dạy đánh chiêng được tổ chức từ ngân sách, và 5 lớp thông qua tài trợ của tổ chức văn hóa Hàn quốc. Qua đó, nhận thức và kiến thức văn hóa cồng chiêng của nhiều người dân trong đồng bào dân tộc tham gia vào các lĩnh vực hoạt động văn hóa địa phương đã nâng lên rõ rệt. Đồng thời, địa phương định hướng vận động hình thành những nhóm, đội, câu lạc bộ cồng chiêng cơ sở, không ngừng lan tỏa các hoạt động chuyên môn và biểu diễn dân gian về cồng chiêng.

Từ yêu cầu thực trạng cồng chiêng cùng định hướng giáo dục và truyền dạy di sản, ngành Văn hóa Đắk Lắk đã nỗ lực thúc đẩy công tác phục dựng, tôn vinh, tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nghi lễ cộng đồng, tâm linh tôn giáo, vận động người dân thực hiện, tái hiện các hoạt động văn hóa sở tại. Nhờ vậy, những tác phẩm, sản phẩm liên quan văn hóa cồng chiêng có thể được trình diễn, biểu diễn trong đời sống xã hội, ngày càng lan tỏa hình ảnh và những giá trị truyền tải mang theo vào cuộc sống đương đại.

Tính đến nay, Sở VHTTDL Đắk Lắk phối hợp các địa phương, đơn vị phục dựng 7 nghi lễ truyền thống tại các buôn làng, như lễ kết nghĩa anh em người Êđê tại buôn Drai Si (xã Ea Tul), người M’nông tại buôn Jiê Juk (xã Đắk Phơi), lễ cúng bến nước tại Buôn Tring (phường Buôn Hồ), lễ cúng cầu mưa, cầu mùa của người Êđê tại xã Cư Pui… Đã có hơn 50% các huyện, thị xã, thành phố hằng năm có tổ chức phục dựng các nghi lễ, lễ hội liên quan đến cồng chiêng, với các nghi lễ, lễ hội như lễ ăn cơm mới, lễ cúng bến nước, cầu mưa, cầu mùa, lễ cúng chiêng… thu hút đông đảo các nghệ nhân và nhân dân trong vùng tham gia.

Xây dựng mạch phát huy

Theo ông Trần Hồng Tiến, Giám đốc Sở VHTTDL Đắk Lắk, những kết quả thống kê, sưu tầm, tổ chức vận động cộng đồng hoạt động văn hóa di sản thời gian qua, đang mở ra một hướng khai thác phát triển mới về các giá trị di sản cồng chiêng. Cơ quan quản lý nhà nước không chỉ dừng lại ở những thành quả kiểm tra, bảo tồn, mà cần xây dựng những mạch phát huy, làm sao đưa di sản vào cuộc sống, “biến di sản thành tài sản”, mới là hiệu quả hướng đến của công tác văn hóa di sản.

Vấn đề này, ông Tiến phân tích cả bốn tiêu chí lớn về bảo tồn, cũng chính là bốn bài toán khơi gợi, đầu tư vào di sản, nhìn nhận di sản với đầy đủ ưu thế, sức sống hiện hữu và hướng về tương lai.

Cùng việc sưu tra, kiểm đếm cồng chiêng, ngành Văn hóa phải đề cao tính nghiên cứu, tạo những dữ liệu phục vụ học thuật, giảng dạy trong cộng đồng, phân loại các chủng loại cồng chiêng, kèm các câu ca, lời kể hợp lý, hoàn cảnh vận dụng, sử dụng các loại cồng chiêng đó. Một cán bộ có nhiều thời gian tìm hiểu về văn hóa cồng chiêng nhìn nhận: “Nói đến cồng chiêng, phải biết rõ hoàn cảnh, quy ước sử dụng của từng loại. Có những loại chiêng hiệu lệnh chỉ dùng trong tang tế, nghi lễ thờ cúng, cầu thần linh, nhưng cũng có những loại chiêng dành cho việc hiếu hỉ, như đám cưới, chúc thọ. Rồi hội mặt anh em, kết nghĩa anh em, mừng lúa mới, mừng ruộng mới… Mỗi dịp như vậy, lại có một điệu chiêng khác nhau, một thời điểm đánh chiêng riêng biệt. Khi tiếng chiêng vang lên, người dân phân biệt được tiếng nào là lễ gì, sự việc gì mà theo dõi, tham gia. Cho nên, hiểu biết đúng các loại chiêng, điệu chiêng là yêu cầu hết sức cần thiết với những người tham gia bảo tồn di sản”.

Từ góc cạnh này, có thể thấy, các đồng bào dân tộc Tây Nguyên thực sự có cả một kho tàng văn hóa về tiếng cồng chiêng, đòi hỏi công tác sưu tầm, nghiên cứu của các cán bộ ngành Văn hóa phải thường xuyên, liên tục. Trong đời sống sinh hoạt mới, cộng đồng người dân cũng xuất hiện nhiều loại hình sự kiện, lễ nghi mới, có ý nghĩa khác nhau, thì lại cần những lễ tiết tổ chức khác nhau, theo đó cần tạo ra những điệu chiêng, tiếng nhạc mới mẻ, phù hợp đời sống đương đại và nhất là tâm lý giới trẻ.

Việc tiếp cận, học hỏi, trình diễn lại được những điệu nhạc chiêng truyền thống trong nghi lễ của đồng bào đã là một yêu cầu không hề đơn giản; do đó, làm sao để mở rộng, phát huy, tạo những mạch văn hóa di sản mới, phù hợp thời đại hơn lại càng là thách thức. Theo ông Lại Đức Đại, dòng chảy văn hóa hiện nay cũng không đơn thuần sử dụng những dữ liệu, thông tin, giai điệu của quá khứ nữa, mà cần bổ sung, làm mới, thay đổi hợp lý chính các tiết tấu cồng chiêng truyền thống. Từ những sự kiện văn hóa mới, các lễ hội đường phố, tổ chức triển lãm…, đồng bào dân tộc tham gia cần những tiết tấu, giai điệu hợp lý hơn, phải có soạn giả, tác giả, đạo diễn sáng tạo những cách thức trình bày mới mẻ, phù hợp tâm lý xã hội hiện đại. Đó là chưa nói đến một lượng rất lớn các loại cồng chiêng phục vụ văn hóa đại chúng, cần cải tiến, thích ứng sử dụng trong những trường hợp mới, như biểu diễn văn nghệ. Các sáng tác này, thực sự rất cần thiết phải bổ sung, và cần những nghệ nhân đồng hành, các nghệ sĩ ủng hộ… Làm được như vậy, ngành Văn hóa mới tạo ra được lộ trình, những mạch văn hóa mới, cần phát huy để di sản trở thành tài sản.

Không chỉ dừng lại ở những sự kiện, hoàn cảnh ứng dụng, sử dụng di sản cồng chiêng, ngành Văn hóa Đắk Lắk còn phải nghiên cứu, cải thiện về chất lượng các sản phẩm cồng chiêng. Đơn cử mới đây, Sở VHTTDL Đắk Lắk đã kết hợp với làng nghề đúc đồng Phước Kiều (Quảng Nam cũ) triển khai một lớp dạy nghề chế tác cồng chiêng từ truyền thống đến hiện đại. Kết quả một số bạn trẻ, với đam mê và kỹ năng của mình, đã trở thành những người thợ mới, trực tiếp tham gia đúc chiêng. Theo ông Trần Hồng Tiến, Giám đốc Sở VHTTDL Đắk Lắk, điều này rất đáng khích lệ, cần được đánh giá và tổ chức thường xuyên, tạo điều kiện để chính cộng đồng người dân tìm hiểu, nắm bắt đúng kỹ thuật chế tác các loại cồng chiêng, tham gia làm nên những bộ cồng, bộ chiêng mới, phục vụ tốt hơn các hoạt động diễn xướng, nghi lễ liên quan di sản.

Phục dựng không gian văn hóa cồng chiêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Văn hóa Đắk Lắk

Bảo tồn cùng hội nhập

Trong bối cảnh đời sống hiện nay, với những thành quả công nghệ máy tính, số hóa ngày càng phổ biến và hiệu quả, yêu cầu bảo tồn các giá trị di sản phải gắn chặt với hiệu quả số hóa và được ngành văn hóa Đắk Lắk quan tâm nhiều hơn. Theo ông Trần Hồng Tiến, đây là định hướng chính để ngành văn hóa tỉnh triển khai các chiến lược phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng trong bối cảnh mới, nhất là sau khi địa phương tiến hành sáp nhập với tỉnh Phú Yên.

Trước mắt, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Sở VHTTDL Đắk Lắk đang tập trung xây dựng đề án thực hiện số hóa di sản văn hóa giai đoạn 2021-2030. Sở đã phối hợp với các đơn vị chuyên môn triển khai số hóa tư liệu các hiện vật tại Bảo tàng tỉnh, số hóa các hồ sơ di tích, di chỉ. Riêng Bảo tàng Đắk Lắk đang được nâng cấp theo hướng bảo tàng số, tiến hành ứng dụng công nghệ 3D và tương tác thực tế ảo, để công chúng có thể khám phá không gian trưng bày bảo tàng ở môi trường trực tuyến. Sở VHTTDL Đắk Lắk cũng đã tiến hành số hóa và xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu di sản văn hóa địa phương, tích hợp vào nền tảng dữ liệu quốc gia, nhằm tạo lập kho dữ liệu số dùng chung về di sản, cổ vật và hiện vật bảo tàng của cả nước.

Quan trọng là, chủ trương bảo tồn di sản văn hóa cần song hành với khả năng phát hiện, sáng tạo thêm những điều kiện phát triển mới sản phẩm di sản. Ở đây, ngành Văn hóa Đắk Lắk cũng chỉ ra rõ một số nhược điểm trong triển khai kế hoạch vận động bảo tồn, phát huy di sản này.

Đó là chính sách ưu đãi cho những nghệ nhân đánh cồng chiêng và các loại hình di sản văn hóa phi vật thể chưa có định mức cụ thể, thiếu rõ ràng, nên địa phương bị trở ngại trong việc hỗ trợ đời sống nghệ nhân. Các nghệ nhân nắm giữ di sản văn hóa truyền thống như kể sử thi, chuyện cổ, biết tạc tượng, chế tạc nhạc cụ dân tộc, biết diễn tấu chiêng, múa xoang, dân vũ đều đã lớn tuổi, sẽ dần mai một.

Trong khi đó, ảnh hưởng văn hóa tín ngưỡng và sự xâm nhập văn hóa từ bên ngoài đã làm thay đổi môi trường văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số, khiến cho công tác bảo tồn di sản cồng chiêng thêm khó khăn, thách thức. Các thế hệ trẻ làm quen với đời sống văn hóa, tinh thần ngày càng đa dạng, chọn thích những loại hình giải trí mới, nhất là công nghệ, khiến sức hút văn hóa cồng chiêng và các loại hình văn hóa dân tộc giảm sút. Thậm chí có những thanh niên xem văn hóa dân tộc là lạc hậu nên lười tham gia các sinh hoạt nghi lễ, lễ hội… Một bộ phận giới trẻ không quan tâm đến di sản cồng chiêng, khiến việc đào tạo, truyền nghề cho thế hệ sau gặp khó khăn.

Theo ông Trần Hồng Tiến, để thay đổi thực trạng này, ngành Văn hóa cần phối hợp các ban ngành chức năng xây dựng các giải pháp gắn kết công tác bảo tồn với phát triển văn hóa, phải tạo ra những sản phẩm mới, phù hợp đời sống đương đại để thu hút giới trẻ quan tâm trở lại, và tổ chức tốt, động viên các thế hệ già, những nghệ nhân truyền thống tham gia các hoạt động phục dựng, chấn hưng di sản văn hóa. Không nên chỉ dừng việc bảo tồn văn hóa cồng chiêng và các lễ hội truyền thống ở mức khôi phục, mà phải tạo nhiều điều kiện để các nghệ nhân và giới trẻ sáng tạo, phát sinh cái mới. Đơn cử trong diễn tấu cồng chiêng, cần phân rõ các nhóm chủ đề, rồi vận động, tổ chức các cuộc thi sáng tác, tạo mới những điệu chiêng, phục vụ các nhu cầu giải trí, biểu diễn văn nghệ, sinh hoạt cộng đồng trẻ tuổi…

Thời gian qua, ngành Văn hóa Đắk Lắk đã khéo léo vận dụng mô hình du lịch cộng đồng, để tổ chức các buổi biểu diễn chung giữa các nghệ nhân, nghệ sĩ cồng chiêng và du khách nước ngoài, nhất là các tổ chức, nhóm nghệ sĩ muốn tìm hiểu về di sản cồng chiêng. Kết quả, đã có những tiết mục diễn tấu cồng chiêng trên nền âm nhạc các nước, như Hàn quốc, Nhật Bản, thật sự đem lại một không khí mới trong trải nghiệm văn hóa di sản. Đây sẽ là những dữ liệu cần thiết trong việc đưa ra các giải pháp vừa bảo tồn, vừa hội nhập giá trị văn hóa di sản. Dựa vào gợi ý này, ông Trần Hồng Tiến cho biết địa phương đang phối hợp ngành Văn hóa TP.HCM tổ chức các sự kiện hằng tháng tại địa bàn thành phố thương mại lớn nhất này, giới thiệu rõ và sâu hơn về văn hóa Tây Nguyên, di sản cồng chiêng, và giới thiệu các tác phẩm mới, như một số vở ca kịch về Tây Nguyên đã rất thành công thời gian qua, để vận động các tác giả tham gia sáng tác về âm hưởng nhạc cụ cồng chiêng.

Rõ ràng nhìn lại chặng đường 20 năm đã qua của Di sản văn hóa phi vật thể nhân loại Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, những gì làm được vẫn chỉ dừng ở bước khởi đầu. Ông Trần Hồng Tiến nhấn mạnh, giá trị di sản được UNESCO ghi nhận chính là không gian, nơi tồn tại và phát dương di sản cồng chiêng. Đó là đời sống sinh hoạt, tập tục, nghi lễ, tín ngưỡng mà người dân Tây Nguyên đã trải qua bao thế hệ mới đúc kết nên. Do đó, bảo tồn, phát huy di sản chính là phải tôn trọng, giữ gìn không gian ấy, và phải biết bổ sung, bù đắp, nghiên cứu tạo ra những cái mới mẻ, độc đáo, một cách phù hợp, trân trọng.

QUỐC BẢO

;