Đề cương về văn hóa Việt Nam đăng trên Tạp chí Tiên Phong, năm 1945 - Ảnh: Bảo tàng Lịch sử quốc gia
1. Nội dung Đề cương về văn hóa Việt Nam thể hiện bản chất cách mạng của Đảng
Đề cương về văn hóa Việt Nam (gọi tắt là Đề cương) do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến 28-2-1943 để bàn những nội dung mang tính lý luận và thực tiễn đang đặt ra một cách cấp bách của cách mạng, tại xã Võng La, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, nay thuộc huyện Đông Anh, Thủ đô Hà Nội. Bản Đề cương của Đảng ra đời và được truyền bá trong hoàn cảnh lịch sử rất cam go. Trên bình diện thế giới, thập kỷ 40 của TK XX là thời điểm cuộc Chiến tranh thế giới thứ Hai đang rất khốc liệt và đi gần tới kết thúc. Trong nước, đội quân Nhật Bản tiến vào Đông Dương và thiết lập chế độ phát xít sau khi hất cẳng đội quân Pháp xâm lược. Sự bóc lột tàn bạo của chính quyền Pháp - Nhật đã gây ra sự kiệt quệ về kinh tế, trực tiếp dẫn đến cái chết của hai triệu đồng bào (chiếm khoảng 10% dân số vào tháng 3-1945) vì phải chịu chính sách một cổ hai tròng và chế độ cai trị hà khắc trong thời gian dài.
Đề cương về văn hóa Việt Nam gồm 5 phần: Cách đặt vấn đề; Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam; Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật, Pháp; Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam; Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mác xít Đông Dương và nhất là của những nhà văn hóa mác xít Việt Nam.
Nội dung Đề cương ra đời đáp ứng yêu cầu của lịch sử, nhằm động viên toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết giành độc lập, tự do với một quan niệm rất rõ là: cứu được dân tộc thì sẽ cứu được văn hóa dân tộc, được ghi ở vị trí số 1 trong 3 nguyên tắc: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa.
Cùng với hoạt động chính trị và quân sự, Đảng cũng rất coi trọng mặt trận văn hóa. Mục 3, phần I của Đề cương ghi: “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”. Đồng thời, khi nhằm mục tiêu số 1 là cứu dân tộc. Cứu dân tộc là nhiệm vụ chính trị, phải đánh đuổi đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền tự chủ cho nhân dân lao động. Đảng cũng cho thấy đó là con đường cứu nền văn hóa dân tộc: “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”.
Hội nghị Cán bộ văn hóa của Đảng, năm 1949 (Ngồi hàng đầu, từ trái sang phải, các đồng chí: Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, Trần Huy Liệu) - Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử quốc gia
Nguyên tắc dân tộc hóa nhằm chống mọi ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa nô dịch và thuộc địa của tư sản và đế quốc, cũng là chống tư tưởng sùng ngoại, tự ti về văn hóa dân tộc. Nguyên tắc dân tộc hóa đề cao giá trị của truyền thống văn hóa dân tộc đã có từ ngàn đời để thúc đẩy tinh thần tự tôn tự cường, anh hùng bất khuất, động viên toàn dân đứng lên thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của người dân với non sông gấm vóc của cha ông, quyết tâm thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo.
Nguyên tắc khoa học hóa hàm ý quan điểm chống lại những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ, kéo lùi sự phát triển, bảo lưu sự bảo thủ lạc hậu, thành kiến, và đặc biệt là nội dung được/ bị coi là mê tín dị đoan, và những nội dung mị dân, ngu dân, các chính sách văn hóa độc hại của phong kiến và thực dân.
Nguyên tắc đại chúng hóa là quan điểm luôn phải lấy dân làm gốc, làm cho mọi chủ trương, chính sách đều vì lợi ích của đông đảo quần chúng. Văn hóa phải thuộc về quần chúng nhân dân, dân phải có quyền văn hóa, có kiến thức, phải biết đọc, biết viết, có trình độ học thức để biết thưởng thức và tham gia các sáng tạo văn học, nghệ thuật và tiếp thu các giá trị tinh thần của dân tộc và loài người tiến bộ tạo ra qua các tinh hoa văn hóa mới. Nguyên tắc này đã góp phần to lớn trong việc lôi kéo các trí thức, văn nghệ sĩ tin yêu theo Đảng và cống hiến những tác phẩm giá trị cho văn hóa Việt Nam.
Rõ ràng nguyên tắc dân tộc được đặt ra để chống lại “nhược điểm”, xu hướng đương thời lúc đó là phản dân tộc; nguyên tắc khoa học để chống lại xu hướng phản khoa học; nguyên tắc đại chúng để chống lại nguyên tắc phản đại chúng.
Điều này được nêu rõ trong lịch sử và tính chất của văn hóa Việt Nam đến giai đoạn 1943 là văn hóa nửa phong kiến, nửa tư sản và hình thức thuộc địa, tiền tư bản, ảnh hưởng của văn hóa phát xít, chịu ảnh hưởng của văn hóa tân dân chủ… Sự phức tạp của bối cảnh xã hội với các chính sách văn hóa của Pháp bao gồm các hành động đàn áp trí thức có tư tưởng cách mạng dân chủ chống phát xít; xuất bản tài liệu tuyên truyền nhồi sọ văn hóa trung cổ, văn hóa ngu dân và văn hóa yêu nước mù quáng hẹp hòi đi song song với hoạt động kiểm duyệt nghiêm ngặt các tài liệu văn hóa; hướng các hoạt động xã hội bề nổi liên quan đến trí dục, thể dục, đức dục cho dân. Chính sách văn hóa của Nhật là khuếch trương chủ nghĩa Đại Đông Á, tuyên truyền phô trương rầm rộ văn hóa xứ Phù Tang kết hợp đàn áp nhà văn chống Nhật và mua chuộc các văn sĩ có tài.
Như vậy, vấn đề của cách mạng văn hóa Việt Nam phải được tiến hành theo lộ trình, phải tuân thủ nguyên tắc và có những điều kiện tiên quyết. Đảng đã vạch ra vai trò của Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, cách mạng dân tộc giải phóng, cách mạng xã hội ở Đông Dương đi trước rồi sẽ tiến hành cách mạng văn hóa ở Việt Nam và ở khắp Đông Dương. Với 3 nguyên tắc đã nêu, văn hóa mới ở Việt Nam là văn hóa mang tính dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung, nó là văn hóa mang tính cách mạng và tiến bộ nhất ở Đông Dương trong giai đoạn đó.
Nội dung 3 nguyên tắc đã nêu có tính khả thi được cụ thể hóa bằng 3 công việc phải làm: a) Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng…; làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng; b) Tranh đấu về tông phái văn nghệ… làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng; c) Tranh đấu về tiếng nói, chữ viết: Thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói; Ấn định mẹo văn ta; Cải cách chữ quốc ngữ…
Để hiện thực hóa nội dung đã nêu, Đề cương ghi rõ cách vận động phải kết hợp công khai và bán công, phương pháp bí mật và công khai thống nhất mọi hoạt động văn hóa tiến bộ dưới quyền lãnh đạo của đảng vô sản mác xít nhằm: tuyên truyền và xuất bản; tổ chức các nhà văn; tranh đấu giành quyền lợi thực tại cho các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ; chống nạn mù chữ…
2. Ý nghĩa, giá trị lý luận và thực tiễn của Đề cương về văn hóa Việt Nam
Bản Đề cương về văn hóa Việt Nam là văn kiện quan trọng của Đảng, đã được tuyên truyền và thực thi ngay sau khi được thông qua. Trải qua 80 năm từ thời điểm ra đời tới nay, nội dung của bản văn kiện này có ý nghĩa và giá trị bề dày trong lịch sử cách mạng Việt Nam, lịch sử văn hóa Việt Nam và đã góp phần vào những thắng lợi to lớn của dân tộc. Từ phương diện nghiên cứu, lý luận về văn hóa, chúng tôi nhận thấy sự nhất quán, logic rất cao trong nhận thức và hành động của Đảng và cá nhân Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người lãnh tụ và danh nhân văn hóa thế giới được tổ chức UNESCO ghi danh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam đã trở thành kim chỉ nam cho các tổ chức và hoạt động văn hóa, văn nghệ, trực tiếp đưa các giá trị văn hóa nói chung đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng nước Việt Nam mới ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc năm 1949 - Ảnh tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh
Về mặt tổ chức, Hội Văn hóa cứu quốc thành lập đã thu hút đại bộ phận đội ngũ trí thức khoa học và nghệ thuật của dân tộc nằm trong Mặt trận Việt Minh do Đảng lãnh đạo, hướng về cách mạng và tham gia cách mạng. Từ hạt nhân đó, những hoạt động có lợi cho cách mạng văn hóa và cách mạng nói chung đã được triển khai với nghĩa rộng nhất của khái niệm văn hóa. Nội dung Đề cương viết: “Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật” là cách hiểu cụ thể mà vẫn có tính bao quát trên lĩnh vực cơ bản là khoa học và nghệ thuật, gắn với người trí thức và gắn với nhân dân.
Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, ngày 24-11-1946, họp tại Nhà hát Lớn Hà Nội, trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu một cách cô đọng, khái quát nhất định hướng của Đề cương về văn hóa Việt Nam: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” (1). Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cho rằng: “Gốc của văn hóa mới là dân tộc” và “phát triển hết cái hay cái đẹp của dân tộc, tức là ta cũng đi tới chỗ nhân loại”…, “văn hóa thế giới sẽ phải chú ý đến văn hóa của mình, và văn hóa của mình sẽ chiếm được một địa vị ngang với các nền văn hóa thế giới”..., “mình có thể bắt chước những cái hay của bất kỳ nước nào ở Âu, Mỹ”..., “Phải mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới” (2).
Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai diễn ra từ ngày 16 đến 20-7-1948 tại xã Đào Giã, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, được đánh giá là “Hội nghị Diên Hồng” đầu tiên về văn hóa được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nội hàm và đích đến của “nền văn hóa mới của nước Việt Nam mới”, là ánh sáng soi đường tập hợp lực lượng văn nghệ sĩ, trí thức, các nhà khoa học trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần quan trọng… Song từ nay trở đi chúng ta cần phải xây đắp một nền văn hóa kháng chiến kiến quốc của toàn dân. Muốn đi đến kết quả đó, các nhà văn hóa ta cần tổ chức chặt chẽ và đi sâu vào quần chúng… Các nhà văn hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế” (3).
Ngày 11-2-1960, tại Hội nghị đại biểu những người tích cực trong phong trào văn hóa quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất” (4). Nền văn hóa mới phải khác với nền văn hóa thời trước, nhà thơ thời trước ngâm vịnh nhàn nhã, nhà thơ hiện nay - người nghệ sĩ cũng là chiến sĩ, nhà thơ cũng phải biết “xung phong”, vì “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” (5). Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất yêu thích nghệ thuật sân khấu dân tộc, dành thời gian tiếp xúc, thăm hỏi, động viên các nghệ sĩ. “Hầu như không có một nghệ sĩ nổi tiếng nào không được gặp Bác ít nhất là một lần” (6).
Để hướng tới xây dựng thành công một xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất sâu sắc rằng: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm... Chúng ta phải biến một xã hội dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui, hạnh phúc” (7).
“Phải làm sao cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Văn hóa phải làm thế nào cho nhân dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng. Văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên hưởng” (8).
Sau 80 năm, nước Việt Nam mới đã ra đời và từ một nước nô lệ, đã vùng lên thực thi thành công những cuộc cách mạng như Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại, cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chống xâm lược biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam Tổ quốc để đi tới thống nhất đất nước hòa bình và phát triển theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, đang hội nhập mạnh mẽ với văn minh nhân loại.
Từ hiện tại nhìn về quá khứ, vẫn có thể khẳng định Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 có giá trị lịch sử to lớn. Đó là Đảng ta đã quan tâm đến văn hóa từ rất sớm và coi mặt trận văn hóa là một trọng tâm. Phép biện chứng, logic trong quan hệ đa chiều của văn hóa đối với đời sống kinh tế, chính trị được khẳng định là quan hệ mật thiết. Đề cương ghi: “Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”.
Đề cương về văn hóa Việt Nam là văn kiện có tính cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa. Thời điểm đó, Đảng cần có các tổ chức và đội ngũ cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa, văn nghệ để gây dựng và thúc đẩy phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc nhằm chống lại văn hóa phong kiến bảo thủ, lạc hậu... Đề cương đã đề cập toàn diện và sâu sắc những vấn đề nền tảng về nguyên tắc, phương châm, phương hướng, và được Đảng không ngừng kế thừa, vận dụng và phát triển để từng bước hoàn thiện tư duy lý luận và nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.
80 năm qua, Đề cương về văn hóa Việt Nam và những tri thức của Đảng, của lãnh tụ, danh nhân văn hóa thế giới Hồ Chí Minh, tri thức mẫn tiệp của Tổng Bí thư Trường Chinh thể hiện qua việc soạn thảo Đề cương vẫn còn những giá trị lý luận và thực tiễn, tiếp tục được chọn lọc, kế thừa những tinh hoa cốt lõi có tác dụng soi đường cho công cuộc xây dựng và phát triển Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Những kế thừa rõ nét nhất đã thể hiện qua các chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa, đặc biệt là quan điểm Đại hội lần thứ XIII của Đảng về xây dựng và phát huy hệ giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam và bài phát biểu chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc diễn ra tại Hà Nội ngày 24-11-2021. Giờ đây bối cảnh đất nước đã hòa bình, hội nhập với khu vực và thế giới, Việt Nam là quốc gia đang phát triển và hướng đến xây dựng xã hội văn minh, công bằng và hạnh phúc là quyền văn hóa của người dân. Hướng tới phát triển bền vững quốc gia và vì hạnh phúc của người dân là mục tiêu chúng ta đang theo đuổi. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định ngay từ những năm tháng non trẻ của nhà nước Việt Nam mới: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (9).
3. Kết luận
Thực hiện Kế hoạch số 203-KH/BTGTW ngày 30-12-2022 của Ban Tuyên giáo Trung ương về việc tổ chức các hoạt động kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943-2023), là dịp để cùng soi chiếu và thấy rõ hơn những giá trị định hướng, soi đường của Đề cương từ đó nhận thức đúng đắn hơn nghĩa vụ và trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn mới cũng là một cách “ôn cố nhi tri tân” nối dài truyền thống văn hóa cách mạng do Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các thế hệ lãnh đạo và nhân dân Việt Nam dày công xây dựng và vun đắp từ trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc hiện nay.
Đề cương về văn hóa Việt Nam luôn thể hiện tính nhất quán của Đảng trong chỉ đạo, lãnh đạo; đồng thời luôn được đổi mới, bổ sung những nội dung và quan niệm mới để góp phần giải quyết những vấn đề nóng hổi đặt ra từ thực tiễn trong quá trình phát triển đất nước, đặc biệt từ sau Đổi mới năm 1986. Tính chất khai phóng của những tư tưởng văn hóa mới thể hiện ở khía cạnh logic khoa học trong quan niệm về văn hóa, tầm nhìn giá trị và sức mạnh văn hóa trong lịch sử văn hóa dân tộc không chỉ là lý thuyết mới mẻ mà còn là phương châm cụ thể cho các hành động thực thi một cách hiệu quả đầy tính cách mạng mở đường cho dân tộc.
Văn hóa mới là văn hóa gắn liền với khái niệm văn hóa cứu quốc, văn hóa kháng chiến - được hiểu như động lực trực tiếp góp phần vào một cuộc cách mạng xã hội, giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Toàn bộ lực lượng xã hội mong muốn hướng đến mục tiêu đất nước độc lập tự do… đều có quyền và nghĩa vụ tham gia cống hiến tài năng, sức lực, nhiệt huyết cho các hoạt động văn hóa mới và xây dựng “nền văn hóa mới” “tân dân chủ” thuộc về nhân dân, là một mặt trận dựa trên sức mạnh tổng lực của quần chúng, là tác nhân tập hợp mọi lực lượng đoàn kết dân tộc, là văn hóa đấu tranh, văn hóa hành động của toàn dân.
Ở tầm vĩ mô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề nâng cao dân khí, dân trí, đoàn kết dân tộc, Tổ quốc trên hết… vừa như mục tiêu, vừa là đường hướng, vừa như giải pháp căn bản của sự phát triển văn hóa, xây dựng con người. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” (10); vì “trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ” (11). “Nước ta là một nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (12).
Bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội… và điều kiện cụ thể có nhiều đổi thay, nhưng những nội dung cốt lõi và tinh thần của Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị, vẫn được tiếp tục kế thừa qua các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, văn nghệ thời kỳ đổi mới, như là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Hội nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Khẳng định những ý nghĩa và giá trị của văn kiện, chúng tôi nhận thấy:
Một là, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 ra đời trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể và khẳng định được sự cần thiết, tất yếu, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Hai là, giá trị to lớn của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là khẳng định nguyên tắc Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo văn hóa; tính chất “dân tộc”, “khoa học”, “đại chúng” của văn hóa Việt Nam thể hiện quan điểm tiến bộ về văn hóa của Đảng; việc vận dụng, tiếp thu, rút ra bài học kinh nghiệm và bổ sung, hoàn thiện những quan điểm, chủ trương của Đảng trong quá trình 80 năm qua, thể hiện trong các văn kiện của Đảng thể hiện tinh thần nhất quán, logic trong đường lối của Đảng về văn hóa Việt Nam…
Ba là, để tiếp tục phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời gian tới, để văn hóa thực sự vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước, là nền tảng tinh thần xã hội, góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế theo tinh thần của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật đang dần tạo ra hành lang pháp lý, thể chế hóa phù hợp hơn với thực tiễn khách quan… rất cần tiếp tục gạn đục khơi trong, kế thừa và phát huy giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc, kế thừa các quan điểm về văn hóa của danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh trong hiện tại và tương lai (13). Đó chính là một trong những yếu tố sẽ góp phần đưa văn hóa Việt Nam sánh vai với các nền văn hóa, văn minh tiến bộ trên thế giới, khiến “ức thuyết thứ hai trở nên thực sự” như tinh thần của Đề cương về văn hóa Việt Nam đã ghi.
____________________
1. Diễn văn khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Báo Cứu Quốc, 25-11-1946.
2. Hoài Thanh, Có một nền văn hóa Việt Nam, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam, Hà Nội, 1946, tr.25.
3. Thư gửi Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ 2 (15-7-1948), Báo Cứu Quốc, số 1011, 12-8-1948.
4, 5. Hồ Chí Minh, Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1997, tr.15, 13-14.
6. Hoàng Chương, Bác Hồ với nghệ thuật sân khấu, Viện Sân khấu xuất bản, Hà Nội, 1990, tr.13.
7. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tr.493-494.
8. Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 2002, tr.451.
9. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.56.
10, 11. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr.64, 64.
12. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.232.
13. Trong Di chúc, Bác viết “Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1999, tr.39.
Tài liệu tham khảo
1. Trong bài này, những nội dung trích từ Đề cương về văn hóa Việt Nam được trích từ Văn kiện Đảng 1930-1945, tập 3, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1977, tr.363-368.
2. Nhiều tác giả, Hồ Chí Minh, nhà văn hóa của tương lai, Nxb Dân trí, Hà Nội, 2018.
3. Phạm Văn Nhuận, Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943: Xây dựng bản sắc văn hóa quân sự Việt Nam hiện nay, tapchicongsan.org.vn, 6-6-2023.
4. Phạm Quang Long, Hướng tới kỷ niệm 80 năm Đề cương văn hóa Việt Nam: “Văn hóa mới” là văn hóa cứu quốc, baovannghe.com.vn, 3-1-2023.
PGS, TS PHẠM LAN OANH
Nguồn: Tạp chí VHNT số 524, tháng 2-2023