TẾT TÁO QUÂN

Ngày 23 tháng chạp hàng năm người ta luôn cúng táo quân. Ông táo là thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà. Ông táo còn được gọi là thổ công lên chầu trời, nên có nơi gọi ngày này là tết ông công, lễ cúng có cá chép vì người Việt cho rằng, ông táo cưỡi cá chép lên chầu trời

Người Việt quan niệm ba vị thần táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp, trên có bài vị thờ viết bằng chữ Hán. Ngày hôm đó, gia đình nào cũng làm mâm cơm cúng thật thịnh soạn, khấn trước bàn thờ, kể rõ mọi việc trong năm và mong muốn trong năm mới mọi việc sẽ thuận buồm xuôi gió.

Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, táo quân có nguồn gốc từ ba vị thần thổ công, thổ địa, thổ kỳ của Lão giáo Trung Quốc nhưng được Việt hóa thành huyền tích 2 ông 1 bà - vị thần đất, thần nhà, thần bếp. Tuy vậy người dân vẫn quen gọi chung là táo quân hoặc ông táo do kết quả của thuyết tam vị nhất thể (thuyết ba ngôi) khá phổ biến trong các tín ngưỡng, tôn giáo. Bếp là bản nguyên của nhà khi người nguyên thủy có lửa và đều dựa trên nền móng là đất.

Ở Việt Nam, sự tích táo quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, do đó có những sự khác nhau về tình tiết, nội dung chính được tóm tắt như sau:

Trọng Cao có vợ là Thị Nhi sống với nhau đã lâu mà không có con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ, Thị Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi, bèn đi tìm vợ, nhưng tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên đành phải đi ăn xin.

Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, hai bên nhận ra nhau, Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.

Phạm Lang trở về nhà, sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo.

Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.

Linh hồn của ba vị được đưa lên Thượng đế. Thượng đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho làm táo quân, gọi chung là Định phúc táo quân, nhưng mỗi người giữ một việc:

Phạm Lang làm thổ công, trông coi việc bếp. Danh hiệu: Đông trù tư mệnh táo phủ thần quân

Trọng Cao làm thổ địa, trông coi việc nhà cửa. Danh hiệu: Thổ địa long mạch tôn thần.

Thị Nhi làm thổ kỳ, trông coi việc chợ búa. Danh hiệu: Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chánh thần.

Truyền thuyết này thể hiện rất đậm nét trong sinh hoạt của người Việt. Trong bếp ngày xưa, thường có ba ông đầu rau - tức là ba hòn đất nặn dùng để kê nồi xanh đun bếp, trong đó hai hòn nhỏ hơn hòn thứ ba. Và nhân dân có tục lệ thờ 2 ông 1 bà, ngày 23 tháng chạp hàng năm làm lễ táo quân, tết ông công ông táo, tiễn ông táo lên chầu trời... Đây rất có thể là ảnh hưởng của phong tục thờ thần lửa - một phong tục có từ lâu đời của nhiều dân tộc, tuy nhiên cách thể hiện ở mỗi nước một khác.

 

Lễ cúng táo quân

 

Lễ cúng táo quân ngày 23 tháng chạp được coi là mang tính cách chuyển giao năm cũ, đón chào năm mới. Người ta chuẩn bị chu đáo cho chiều 30 là thời điểm đón ông công ông táo trở về trần gian làm nhiệm vụ năm mới. Lễ vật cúng táo quân gồm có: mũ ông công ba cỗ hay ba chiếc (hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà). Mũ dành cho các ông táo thì có hai cánh chuồn, mũ táo bà thì không có cánh chuồn. Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những dây kim tuyết màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng một cỗ mũ ông công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia bằng giấỵ Màu sắc của mũ, áo hay hia ông công thay đổi hàng năm theo ngũ hành: năm hành kim thì dùng màu vàng, năm hành mộc thì dùng màu trắng, năm hành thủy thì dùng màu xanh, năm hành hỏa thì dùng màu đỏ, năm hành thổ thì dùng màu đen.

Những đồ vàng mã, như mũ, áo, hia, và một số vàng thoi bằng giấy, sẽ được đốt đi sau lễ cúng ông táo vào ngày 23 tháng chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó người ta lập bài vị mới cho táo quân. Bài vị ở bàn thờ thổ công thường ghi: Đông trù tư mệnh, táo phủ thần quân, thổ địa long mạch tôn thần, ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần. Sau khi lễ xong thì hóa vàng, hóa luôn cả cỗ mũ năm trước và thả một con cá chép còn sống xuống ao, cá sẽ hóa rồng để ông công cưỡi lên chầu trời.

Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng táo quân một con gà luộc. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ táo quân xin với Ngọc hoàng thượng đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy.

Ngoài ra, để táo quân có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc người ta cúng một con cá chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý cá hóa long nghĩa là cá sẽ biến thành rồng đưa ông táo về trời. Con cá chép sau được phóng sinh (thả ra ao, hồ hay sông). Tại miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên, cương đầy đủ. ở miền Nam giản dị hơn, chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng giấy.

Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, hoặc làm lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng...) hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc…) để tiễn táo quân.

            Hình ảnh táo quân, vua bếp, cũng trở nên gần gũi với cuộc sống hiện đại hơn, với quan niệm gia đình nào được táo quân phù hộ nhiều thì hạnh phúc, yên ổn, thành đạt, bếp đỏ lửa mỗi ngày. Những gia đình không có điều kiện đỏ lửa mỗi ngày để ông vua bếp làm nhiệm vụ thì ngầm hiểu táo quân chưa hoàn thành nhiệm vụ giữ gìn tổ ấm gia đình một cách trọn vẹn.

(sưu tầm)

 


Nguồn : Tạp chí VHNT số 319, tháng 1-2011

Tác giả : Hiền Hiền

;