TANG LỄ CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT Ở BA VÌ

Ba Vì là xã miền núi duy nhất của Hà Nội có người Dao quần chẹt cư trú thành cộng đồng. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, giao lưu văn hóa ngày càng mở rộng, văn hóa truyền thống của người Dao nơi đây đã có những biến đổi nhất định. Tuy nhiên, do tính cộng đồng sâu sắc mà một số nét văn hóa của người Dao được bảo tồn khá toàn diện, trong đó có nghi lễ tang ma. Đây là nghi lễ cuối cùng trong chu kỳ vòng đời của mỗi con người, không chỉ có ý nghĩa tiễn đưa linh hồn người chết về với thế giới tổ tiên mà còn để bảo vệ sự yên bình cho người đang sống.


1. Quan niệm về cái chết, cách làm ma cho người chết

Quan niệm về cái chết

Người Dao quần chẹt ở Ba Vì quan niệm rằng con người có hai phần là thể xác, linh hồn. Khi con người chết thì hồn lìa khỏi xác, vì vậy những người còn sống sẽ làm đám tang cho người chết để chôn cất thi hài, đưa linh hồn người chết lên thiên đàng. Con người sau khi chết biến thành ma, về thế giới tổ tiên, cũng có cuộc sống như con người ở trần thế. Do vậy, con cháu cần thờ cúng. Tuy nhiên việc thờ cúng chỉ diễn ra đối với những người đã trải qua lễ cấp sắc (bao gồm cả vợ của người được cấp sắc). Khi cầu cúng ma thì gọi tên cấp sắc. Tất cả những nghi thức cầu cúng đối với thế giới bên kia đều phải thực hiện 3 lần thì ma người chết mới nghe thấy, nhận biết được các loại lễ vật cúng tế.

Trong quan niệm về cái chết, người Dao quần chẹt ở Ba Vì cũng chia làm 2 loại là chết bình thường, không bình thường. Chết bình thường là những người chết do tuổi già, do đau yếu, bệnh tật. Chết không bình thường là những cái chết do bị thương tổn về thể xác như: tai nạn, treo cổ, bị người khác giết, chết đuối..., hay diễn ra ở đường, rừng, sông, suối... Đối với những người chết bình thường, đã được trải qua lễ cấp sắc, người ta tiến hành xem ngày, giờ tốt, xấu để tiến hành nghi thức tang ma cho phù hợp. Đối với những cái chết không bình thường thì đám tang tiến hành nhanh gọn, không có sự đưa tiễn linh hồn của thày cúng.

Các cách thức làm ma cho người chết

Người Dao quần chẹt ở Ba Vì có những cách thức tổ chức tang ma khác nhau. Đối với những người chết bình thường, có 2 hình thức: làm ma để chôn cất thi hài người chết sau đó mới làm lễ tiễn hồn lên thiên đàng, làm ma kết hợp với lễ tiễn hồn lên thiên đàng.

Để được làm ma theo cách thứ nhất, người chết phải trải qua lễ cấp sắc (nếu là đàn ông) hoặc là vợ của người đã cấp sắc. Ngoài ra, phải chết vào giờ tốt, không kỵ thày, không sát con cháu, có nhà tổ đã hoàn thiện. Hình thức làm ma này diễn ra trong 1 ngày 1 đêm sau đó sẽ tổ chức chôn cất người chết.

Trong truyền thống, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, việc thực hiện đầy đủ các thủ tục như cấp sắc, tách nhà tổ... không phải gia đình nào cũng làm được nên hình thức làm ma này ít diễn ra. Những người làm được ngay khi vừa chết được coi là có phúc. Nếu đã làm thì sau đó gia đình chỉ cần làm lễ gọi hồn người chết về nhập vào bàn thờ tổ tiên (sau đám tang 3 ngày), làm lễ cấp đất cho người chết là mọi thủ tục coi như đã hoàn tất.

2. Các nghi thức chính trong tang lễ

Đám tang chôn cất thi hài người chết

Khi trong nhà có người hấp hối, gia đình phân công túc trực bên giường của người bệnh. Thông thường, người con trai cả đứng ra lo tang lễ cho bố mẹ. Khi chết, người đó được gia đình tắm rửa cho bằng nước trà, thay quần áo mới. Đối với người đàn ông đã trải qua lễ cấp sắc thì cho mặc trang phục như khi làm lễ. Sau khi tắm rửa, người chết được đặt nằm trên giường, đắp vỏ chăn vải, kiêng đắp chăn bông vì sợ con cháu sau này bị ù tai.

Trên đầu giường người chết có kê 1 bàn nhỏ đặt 1 chiếc thúng để con cháu, họ hàng, láng giềng đến phúng viếng. Mỗi người con mang đến 1 nắm cơm, 1 quả trứng, 1 đôi đũa, 1 con gà. Nắm cơm, quả trứng gói trong giấy bản, đôi đũa cắm dựng thẳng trong nắm cơm, cơm chỉ được xới đúng 1 lần. Do vậy, người Dao ở Ba Vì kiêng cắm đũa thẳng vào bát khi ăn cơm, xới cơm 1 lần.

Một người đại diện trong gia đình bỏ đồng bạc trắng (hoặc tiền xu) vào miệng người chết. Việc này có ý nghĩa bảo vệ gia đình, con cháu đang còn sống. Khi người chết xuống âm phủ, quan bên âm hỏi, người chết lo giữ tiền sẽ không tiết lộ thông tin của con cháu, nếu không quan bên âm sẽ sai ma xấu đến hành hạ con cháu, làm con cháu đau ốm, làm ăn thất bát hoặc có thể chết trùng tang.

Hành động cho tiền xu vào miệng còn được tác giả Lý Hành Sơn lý giải rằng theo quan niệm của người Dao Tiền là để tự vệ, không cho ma khác đến bắt ma của người chết. Người ta cho rằng, ở thế giới người sống cũng như thế giới tổ tiên có một đám ma gọi theo tiếng Dao Tiền là chỉa miến hoặc thia hố, chuyên rình bắt ma của người chết nhưng lại rất sợ kim khí. Do đó cho tiền bằng bạc vào mồm của người chết còn để ma người chết có kim khí tự vệ, chống lại đám ma chỉa miến.

Làm gối cho người chết, phát khăn tang

Người con trưởng sẽ lấy mảnh vải mộc trắng, khâu thành một cái túi, đổ gạo vào trong đó. Nếu người Dao tiền ở Ba Bể chỉ khâu túi đựng đúng một ống gạo để người chết gối đầu thì người Dao quần chẹt ở Ba Vì lại thường khâu túi đựng khoảng 2 - 3 ống gạo. Do vậy, trong cuộc sống hàng ngày, người Dao quần chẹt ở Ba Vì cũng không kiêng nấu đúng một ống gạo như người Dao tiền.

Vải mộc trắng đã được chuẩn bị sẵn để làm khăn tang. Khăn tang có 2 loại: một loại dùng cho con cháu, còn một loại để con cháu đắp lên người chết, chất liệu giống nhau. Đối với khăn để con cháu đội trong đám tang, có sự khác biệt giữa con trai, con gái, con dâu, cháu. Khăn tang của con trai phần trên được khâu lại như hình cái mũ để đội lên đầu, phần còn lại để buông dài phía sau lưng. Con trai trưởng sẽ đeo khăn tang dài nhất. Độ dài của khăn tang ngắn dần theo thứ tự của các con thứ 2, thứ 3. Đối với con gái, con dâu, cháu, khăn tang chỉ là một mảnh vải dài được buộc lên tóc hoặc khăn. Riêng con rể thì không đội khăn tang bố mẹ vợ. Con nuôi được tính như con đẻ.

Đối với khăn đắp lên thi hài, mỗi người con dùng 1 dải để phủ lên người chết. Người con cả có khăn dài nhất (phủ từ trên đầu xuống đến tận chân người chết). Các con còn lại chỉ phủ khăn từ ngực xuống chân. Độ dài cũng khác nhau, theo thứ tự con trong gia đình. Việc đắp khăn lên người chết là thể hiện sự báo hiếu, tấm lòng của con cháu đối với người chết.

Tìm thày cúng, chuẩn bị chôn cất     

Gia đình nhờ người xem sách để biết người chết vào giờ tốt hay xấu, có sát con, cháu, đặc biệt là có sát thày không. Nếu chết vào giờ sát thày sẽ không có thày cúng làm lễ cho đám tang. Nếu chết giờ sát con, cháu thì vẫn đi mời thày làm lễ, nhưng trong tang lễ sẽ làm các thủ tục giải hạn.

Sau đó, gia đình sẽ cắt cử người đi mời dân làng, thày cúng đến làm lễ. Khi đi mời, không được vào nhà mà chỉ đứng ngoài ngõ để tránh mang xui xẻo đến nhà người khác. Lễ tang không bao gồm lễ tiễn hồn lên thiên đàng, chỉ cần mời 1 thày cúng làm lễ, 2 người khiêng thi hài từ nhà đến huyệt. Những người này đều không có họ hàng gì với người chết. Các công việc khác như đóng quan tài, chọn đất đào huyệt... đều do anh em họ hàng, xóm giềng giúp đỡ.

Người Dao quần chẹt ở Ba Vì không chọn ngày giờ làm đám tang, chôn cất thi hài, khi đã xong khâu chuẩn bị, thày cúng đến, họ sẽ tiến hành các thủ tục cúng bái, chôn cất ngay. Do vậy thời gian đưa ma có thể diễn ra vào nửa đêm, gần sáng hoặc bất kể lúc nào khi việc cúng bái đã hoàn tất.

Vùng đất được chọn để chôn cất người chết rất đa dạng, có thể là sườn đồi, trong thung lũng hoặc ngay dưới chân núi, nhưng phải đảm bảo đất ở đó không bị sụt lở, không ngập nước khi mưa lũ. Đất được chọn để đào huyệt thường là nơi nhìn được ra xa, phía trước không vướng nhà cửa, khe hoặc hang đá. Nếu hướng huyệt nhìn thẳng vào nhà người khác thì đó là điềm xấu cho cả gia chủ cũng như gia đình có mộ hướng vào. Thông thường, việc chọn hướng đào huyệt sẽ phụ thuộc vào tháng mất của người chết. Khi đặt người chết xuống huyệt phải đặt sao cho mặt nhìn về hướng tốt.

Trước khi đào huyệt, một người trong nhóm (hoặc thày cúng) xin âm dương, báo cáo thần linh việc đào huyệt tại khu vực đã chọn. Huyệt phải đào sâu từ 1,5m - 2m để tránh thú vật đến đào bới, ăn xác người chết. Hiện nay, người chết được chôn tập trung tại nghĩa trang do xã quy định. Tuy nhiên, việc chọn hướng đào huyệt vẫn được thực hiện.

Quan tài người chết được làm bằng một thân cây gỗ to, xẻ một miếng làm nắp. Phần còn lại được đục rỗng. Người Dao ở Ba Vì kiêng đóng đinh sắt vào quan tài mà chỉ dùng đinh tre hoặc làm mộng gỗ để cố định phần nắp, phần thân với nhau trước khi chôn. Nếu dùng đinh đóng thì sau này con cháu làm ăn không tốt, hồn người chết cũng không trở về được mỗi khi cúng lễ. Người Dao nơi đây không kiêng việc để quan tài trong nhà. Thậm chí họ còn chuẩn bị sẵn quan tài khi gia đình có người già.

Chia tài sản cho người chết

Trước khi chôn cất, gia đình chuẩn bị tài sản để chia cho người chết. Đó là những vật dụng sinh hoạt hàng ngày: 1 cái nồi, 1 bát ăn cơm, 1 đôi đũa, 1 ấm nước, 1 cái chén, 1 cái điếu (nếu là đàn ông), quần áo, 1 chai rượu, 1 gói cơm. Những đồ này có thể là đồ gia đình đang dùng hoặc đồ mới. Tuy nhiên, đồ đang dùng hoặc mới mua đều phải còn nguyên vẹn để thể hiện tấm lòng thành kính của con cháu với người đã khuất.

Ngoài những vật dụng trên, các con trai, con gái, con dâu, tùy thuộc vào điều kiện gia đình sẽ cho người chết quần áo, thóc, gạo hoặc vàng, bạc. Đồ trang sức bằng vàng, bạc có thể cho vào quan tài, nhưng tuyệt đối không cho đồ bằng sắt vì làm như vậy linh hồn người chết sẽ không về được nhà mỗi khi con cháu cúng lễ.

Lễ đưa đám

Sau khi thày cúng làm các thủ tục để báo cho tổ tiên của gia đình có người chết, thi hài được cho vào quan tài chuẩn bị đưa đi chôn cất. Những người trong gia đình, họ hàng đến đưa ma có giờ sinh trùng với ngày giờ đưa ma phải lánh mặt đến khi đoàn đưa ma ra khỏi nhà mới được quay trở lại vì sợ bị ma của người chết bắt theo. Nếu người chết vào giờ sát con, sát cháu thì con cháu cũng không được đưa đi chôn.

Khi khiêng quan tài, người ta thường khiêng ra cửa chính, khiêng chân đi trước, đầu đi sau. Trong lúc 2 người khiêng quan tài ra ngoài thì thày cúng cầm 1 con dao, 1 cành lá xanh, 3 người đàn ông khác cầm gậy, thuổng, búa, 1 ống bương có gạo ở trong đi theo đập vào cửa, tường, bếp, rắc gạo..., vừa đập vừa thét lớn. Mục đích là để xua đuổi ma quỷ xấu có thể bắt hoặc làm hại ma người chết.

Quan tài được khiêng ra ngoài, đặt ngang ngay dưới sân trước cửa chính. Thày cúng cầm 1 con gà con, 1 cái chén làm phép. Sau đó thày chặt đứt con gà con, đập vỡ chén thành nhiều mảnh rồi thề: nếu ông (bà) làm sống lại được con gà, gắn liền được cái chén thì linh hồn mới được về làm hại con cháu, nếu không làm được thì chỉ khi nào con cháu mời mới được về.

Sau đó, những người được phân công sẽ khiêng quan tài đưa ra nghĩa trang chôn cất. Đi đầu đoàn đưa ma có một người tung tiền vàng, gạo để xua đuổi ma xấu không bám vào quan tài, làm hại linh hồn người chết. Trên đường đi, đoàn đưa ma không được dừng lại nghỉ ngơi, không được đi qua trước cửa nhà người khác. Trên đường đi, nếu gặp suối thì phải đốt tiền xin thần suối cho đi qua. Nếu đưa ma vào ban đêm người ta đốt đuốc để soi sáng đường đi.

Lễ an táng

Khi đưa tang ra đến huyệt, thày cúng tiến hành cúng đuổi nhóm ma chuyên rình bắt ma của người chết, đồng thời cúng báo, đốt tiền âm phủ cho thần thổ địa cùng các thần ma cai quản vùng đất đó, báo rằng người chết đã chọn nơi này làm nhà để sống với tổ tiên, cầu mong các thần phù hộ, không cho đám ma xấu đến quấy phá. Những đồ vật, thóc, gạo con cháu chia cho người chết được bỏ dưới huyệt, quần áo cho vào trong quan tài. Trong khi mọi người lấy đất đắp mộ thì thày cúng vẫn tiếp tục cúng thông báo với ma người chết về việc thần thổ địa, các thần linh khác đã đồng ý phù hộ, hãy yên tâm làm ăn, con cháu cũng đã cho nhiều tài sản gồm đồ ăn thức uống, các đồ dùng sinh hoạt... Mộ được đắp cao, không rào, không lợp mái. Ở dưới chân mộ có để 1 gói cơm, 1 chiếc bát ăn cơm, 1 đôi đũa, 1 cái chén, 1 ấm nước, 1 chai rượu, thắp hương cho người chết.

Mai táng xong, con cháu phải về trước, không được quay đầu lại để tránh hiện tượng trùng tang. Thày cúng là người về sau cùng. Ông dùng 1 cành lá xanh cắm xuống đất, làm bùa 3 lần trên đường về. Lần 1 ngay cạnh mộ, lần 2 ở giữa đoạn đường về nhà, lần 3 ở gần nhà con cháu để hồn người chết không theo về nhà.

Nếu người đó chết vào giờ sát con, sát cháu, sau khi chôn cất, thày cúng sẽ làm bùa hóa giải. Việc thực hiện bùa giải cũng được tiến hành 3 lần. Bùa thứ nhất được đặt ngay trên mộ, bùa thứ 2 cách bùa thứ nhất 1 đoạn, bùa thứ 3 được đặt ở gần nhà con cháu người chết. Thày cúng lấy một cành cây có đầu cong như chiếc móc, sau đó buộc sợi dây vào đầu móc, kéo căng xuống dưới đất. Thày cúng làm phép sau đó dùng dao chặt đứt sợi dây, cái móc, nói câu thề: “nếu ông (bà) làm lành được sợi dây, cái móc đã chặt đứt thì mới được về làm hại con cháu, bằng không thì khi nào cúng lễ, con cháu mời mới được về”. Đây cũng là nghi lễ bảo vệ người sống khỏi những điều xấu trong đám tang.

3. Nghi lễ sau khi chôn cất

Lễ rửa nhà

Sau khi đưa tang, gia đình mổ lợn cúng, thông báo với tổ tiên trong gia đình có người chết đã đưa đi chôn cất chu toàn. Tiếp đó, thày cúng cầm một cành lá xanh, cốc nước vẩy khắp nhà, đặc biệt là chỗ người chết nằm, với mục đích xua đuổi ma quỷ, những điều không tốt lành trong nhà. Kết thúc nghi lễ, con lợn được mang xuống bếp chế biến mời họ hàng, anh em xóm giềng, cảm ơn họ đã đến giúp đám tang. Ăn xong bữa cơm đó, mọi người lặng lẽ ra về không được chào nhau vì sợ ma qủy dọc đường sẽ theo về nhà.

Đối với những người chết không bình thường, người Dao quần chẹt kiêng đưa thi hài về nhà mà mang đi chôn cất ngay. Mọi thủ tục chôn cất cũng được diễn ra bình thường. Sau khi chôn cất, gia đình làm lễ cúng báo với tổ tiên. Nếu trường hợp chết do thú dữ ăn thịt hoặc chết nhưng không tìm thấy xác, họ không tổ chức lễ chôn cất nhưng vẫn phải làm lễ cúng báo với tổ tiên về việc gia đình bớt đi một nhân khẩu.

Lễ gọi hồn người chết

Sau đám tang 3 ngày, gia đình tổ chức lễ gọi hồn người chết. Lễ vật gồm: 1 con gà, rượu, hương, tiền vàng. Đồ đạc của người chết được hơ qua lửa để cho người chết nhận được. Sau đó những đồ còn giá trị có thể được tái sử dụng.

Sau khi chiêu hồn người chết về nhà, linh hồn sẽ được thờ cúng tại một bàn thờ nhỏ trong nhà hoặc trong bếp. Hàng ngày, đến bữa ăn, con cháu đều đưa cơm hoặc cháo mời người chết. Thời gian đưa cơm cho người chết khoảng 3 tháng. Đến một vụ lúa mới, trước khi gặt, gia đình để riêng một mảnh nương, mời linh hồn của người chết về, giao hẹn: “đám nương này gia đình chia cho ông (bà), từ nay ông (bà) tự làm lấy mà ăn”. Kể từ đó gia đình không cần đưa cơm cho người chết nữa.

Lễ cấp đất cho người chết

Sau đám tang khoảng 1 năm, gia đình mời thày về làm lễ cấp đất cho người chết. Người Dao quần chẹt ở Ba Vì không có tục cải táng. Chỉ trừ trường hợp mộ của người chết bị san lấp, di chuyển đi nơi khác thì họ mới bốc mộ. Khi đã chọn được mảnh đất thích hợp để chôn người quá cố, con cháu sẽ phải thực hiện nghi thức xin thần linh, thổ địa cấp mảnh đất đó vĩnh viễn cho người chết.

Để thực hiện nghi lễ, gia đình chuẩn bị: 1 con lợn, 2 con gà, rượu, bánh dày, tiền vàng, hương, mời thày cúng làm lễ. Nếu mộ ở gần nhà thì nghi lễ được tiến hành tại mộ. Nếu mộ ở xa thì người ta dựng một cái mộ giả bằng đất ở bên cạnh nhà để làm lễ.

Thông thường, sau nghi lễ, gia đình sẽ dọn dẹp, phát cỏ cho ngôi mộ, đắp thêm đất, sửa sang lại bia mộ, làm hàng rào bảo vệ xung quanh. Hiện nay người nhà sẽ tiến hành xây mộ cho người quá cố. Kể từ sau khi làm lễ, con cháu gần như không còn ra thăm viếng mộ, chỉ trong trường hợp nghe nói ngôi mộ có điều xấu thì họ mới tới thăm.

Đám chay tiễn hồn lên thiên đàng

Đây là nghi lễ cuối cùng của con cháu đối với người chết. Do đồng bào chưa có điều kiện làm ngay nên thường sau 1 - 3 năm thậm chí lâu hơn nữa mới có thể tổ chức lễ chay cho người chết. Nếu trong gia đình có nhiều người chưa làm đám chay thì có thể làm gộp một lần. Việc làm lễ này phải theo thứ tự trong dòng họ gia đình.

Để chuẩn bị cho nghi lễ, mỗi người chết cần: 1 con lợn, 2 con gà, rượu, gạo, tiền vàng, hương làm lễ vật, mời 3 thày cúng. Thày cả chịu trách nhiệm thực hiện cúng lễ đưa hồn lên thiên đàng, thày hai, thày ba là người giúp việc cho thày cả. Nếu có điều kiện, gia đình mời thêm thày đồng để giúp việc bói toán khi cần.

Nghi lễ đầu tiên là việc thả tranh thờ. Thày cả cúng thông báo với các vị thần linh, gia tiên về việc làm lễ, cầu xin phù hộ cho mọi việc được thuận lợi. Tiếp đó ngay phía trước bàn thờ chính, người ta bắc một cái thang dựa vào vách nhà, một bên thang treo 1 dải vải mộc trắng dài từ trên đỉnh thang xuống dưới đất, kéo dài đến phía giáp bàn thờ chính. Một bên thang được treo bức tranh dài. Phía trên mái nhà chỗ đặt thang, họ dỡ 1 viên ngói hoặc cỏ gianh tạo thành 1 khoảng trống, các con cháu người quá cố đứng bám vào hai bên giữ thang giúp hồn người chết lên thiên đàng.

Thày cả cúng gọi các ông thánh sư để tiễn linh hồn người chết lên thiên đàng. Sau khi cúng, thày xin âm dương, nếu được thì có nghĩa là hồn người chết đã lên được thiên đàng. Nếu xin âm dương mãi vẫn không được thì phải nhờ thày bói tìm nguyên nhân. Có thể khi còn sống, người đó đã làm những việc xấu, nợ nần hoặc trộm cắp tài sản... Gặp trường hợp đó, thày cúng cùng con cháu phải làm lễ, đốt tiền vàng rửa tội, trả nợ cho người chết.

Tang ma với ý nghĩa để xoa dịu nỗi đau cho người sống, tiễn hồn người chết lên thiên đàng, về với thế giới tổ tiên, vì vậy nó được thực hiện bằng rất nhiều nghi thức, nghi lễ bắt buộc. Là nghi lễ cuối cùng trong chuỗi nghi lễ vòng đời của người Dao quần chẹt, tang ma mang ý nghĩa chuyển đổi sâu sắc: chuyển từ thế giới trần tục sang thế giới tổ tiên.

Tang ma của người Dao quần chẹt ở Ba Vì phản ánh tín ngưỡng của cộng đồng với quan niệm về linh hồn, cái chết. Qua tập quán, nghi lễ tang ma, chúng ta biết về nguồn gốc, quá trình di cư đến Việt Nam, tụ cư tại Ba Vì của người Dao quần chẹt. Ngày nay, tang ma của người Dao cũng có những biến đổi để phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, tuy nhiên sự biến đổi không nhiều. Phần lớn các nghi lễ đều được thực hiện theo truyền thống, chỉ biến đổi trong một số khâu chuẩn bị. Việc chuẩn bị những điều kiện vật chất cho đám tang được thuận lợi nên tình trạng đưa ma vào ban đêm hầu như không còn.


Nguồn : Tạp chí VHNT số 387, tháng 9-2016

Tác giả : VŨ THỊ UYÊN

;