QUAN ĐIỂM VỀ TÔN GIÁO TRONG XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA MỚI

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn xác định tôn giáo là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, có tính xuyên suốt trong toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Mọi chủ trương, chính sách luôn dựa trên nguyên tắc cơ bản là “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển”. Trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới - nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay, thực hiện công tác tôn giáo nhằm phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của các tôn giáo, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực thúc đẩy đất nước phát triển.

1. Quan điểm của Đảng về tôn giáo

Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Phải đoàn kết chặt chẽ không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo. Đoàn kết tức là lực lượng. Chia rẽ tức là yếu hèn”. Theo lời dạy của Người, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm tới vấn đề tôn giáo.

Kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo có vị trí quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Ngay từ khi Đảng ra đời đến nay, nhất là khi giành được chính quyền về tay nhân dân, Đảng và Nhà nước ta luôn thực hành trước sau như một chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thực tiễn đã chứng minh, tôn giáo được xây dựng trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển đất nước, là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhờ có sự phát huy sức mạnh của tôn giáo, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các dân tộc trong cộng đồng đại gia đình các dân tộc Việt Nam, từ chỗ bị áp bức, bóc lột dưới sự đô hộ của thực dân đế quốc, đã trở thành những thành viên làm chủ đất nước độc lập, thống nhất. Vấn đề tôn giáo được củng cố và tăng cường manh mẽ. Ngày nay, vấn đề tôn giáo đang được phát huy cao độ, trở thành động lực của công cuộc đổi mới.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng luôn xác định vấn đề đoàn kết toàn dân, trong đó có đồng bào theo tôn giáo, luôn là nhiệm vụ mang tính chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng. Tầm quan trọng, vị trí của vấn đề tôn giáo xuất phát từ tư cách của nó là bộ phận hợp thành động lực cách mạng để thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng đặt ra cho từng thời kỳ.

Hầu hết các kỳ Đại hội Đảng, đặc biệt là các Văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới đã đề cao, coi trọng vị trí chiến lược của vấn đề tôn giáo. Sau Đại hội Đảng lần thứ VI, trước những yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, ngày 16-10-1990, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 24-NQ/TW về Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới để đáp ứng kịp thời nhu cầu đổi mới nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết xác định: “Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới". Đây là bước ngoặt trong đổi mới nhận thức về vấn đề tôn giáo của Đảng ta, là cơ sở lý luận quan trọng để hạn chế các biểu hiện sai lầm trong nhận thức, ứng xử với tôn giáo, làm cho chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với tôn giáo ngày càng đúng đắn, được đông đảo đồng bào theo các tôn giáo đồng tình, ủng hộ. Không thể nhìn tôn giáo qua mệnh đề của C.Mác đã bị cắt xén làm cho nó trở nên phiến diện: Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Phải nhìn nhận tôn giáo như một thực thể xã hội, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân và hoàn toàn có thể đồng hành với chủ nghĩa xã hội. Riêng luận đề mới mẻ về văn hóa, đạo đức tôn giáo đã khơi dậy trực tiếp những suy nghĩ, hành động tích cực của quần chúng, cả những người có và không có tôn giáo. Lần đầu tiên, trong văn kiện của Đảng, tín ngưỡng, tôn giáo được nhìn nhận là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, chia sẻ với những gì mà người có đức tin tôn giáo cảm nhận được, không đối lập về mặt ý thức hệ, về lập trường tư tưởng để thừa nhận lý tưởng đạo đức của tôn giáo có nhiều điểm tương đồng với lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Quan điểm mang tính đột phá này tiếp tục được đề cập trong các nghị quyết, chỉ thị sau này.

Hội nghị Trung ương 7 khóa IX đã ra Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12-3-2003 về công tác tôn giáo, nhắc lại các luận điểm cơ bản và cụ thể hóa thêm Nghị quyết số 24-NQ/TW. Đây là lần đầu tiên Đảng có một nghị quyết riêng về tôn giáo, cho rằng, công tác tôn giáo cũng như công tác dân tộc là những vấn đề chính trị lớn cần phải nhìn nhận đúng đắn và giải quyết một cách tinh tế. Đây là sự thể hiện nhãn quan văn hóa, văn hóa chính trị của Đảng trong việc lãnh đạo công tác tôn giáo và công tác dân tộc ở nước ta. Nghị quyết yêu cầu: “Cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp, các ngành cần thống nhất nhận thức về các quan điểm và chính sách sau đây: tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật".

Khi thừa nhận tín ngưỡng, tôn giáo là hiện tượng xã hội còn tồn tại lâu dài, Đảng ý thức được rằng, dù muốn hay không, nhưng khi còn tồn tại thì tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Tôn giáo vẫn phát huy những ảnh hưởng của nó cả tích cực lẫn tiêu cực trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong trường hợp này, thái độ đúng đắn nhất, biện chứng nhất là khuyến khích phát huy những giá trị tích cực về văn hóa, đạo đức của tôn giáo.

Ngày 2-7-1998, Bộ chính trị ra Chỉ thị số 37-NQ/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới, khẳng định: “Những hoạt động tôn giáo ích nước lợi dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tín đồ được đảm bảo. Những giá trị văn hóa đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy”.

Trên cơ sở Nghị quyết số 24-NQ/TW, các Nghị quyết của Đảng từ Đại hội VII đến X, căn cứ vào tình hình đất nước cũng như vấn đề tôn giáo khu vực và thế giới, Đảng ta tiếp tục phát triển quan điểm, chính sách đối với tôn giáo trong tình hình mới của cách mạng.         

Đại hội Đảng lần thứ XI đã đặt trọng tâm của công tác tôn giáo vào lĩnh vực chính sách, pháp luật. Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng”. Như vậy, Đảng không chỉ dựa vào quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, mà còn dựa trên những đặc thù tôn giáo ở Việt Nam cũng như bối cảnh tôn giáo trên thế giới, vượt qua cái nhìn chính trị - tôn giáo quen thuộc trước đây để có cái nhìn mới, biện chứng về tôn giáo.

 2. Chính sách tôn giáo trong giai đoạn hiện nay

Tôn giáo là một vấn đề lớn, mang tính chiến lược của mỗi quốc gia. Việc giải quyết vấn đề tôn giáo đòi hỏi phái có một chính sách đúng đắn dựa trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của thế giới và mỗi dân tộc, cũng như thực tiễn của tôn giáo với những đặc điểm cụ thể của nó. Tuy nhiên, đặc điểm của vấn đề tôn giáo trong mỗi giai đoạn lại có sự khác nhau và cũng biến động do những tác động của thế giới cũng như mỗi dân tộc. Do đó, việc giải quyết vấn đề tôn giáo không thể tách rời với giải quyết vấn đề kinh tế, chính trị, đoàn kết dân tộc trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể.

Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương và chính sách đúng đắn đối với vấn đề tôn giáo. Để cụ thể hóa chủ trương trên, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển toàn diện vấn đề tôn giáo. Dựa trên sự tổng kết công tác tôn giáo các thời kỳ với những kết quả, thành tựu cũng như hạn chế và bài học kinh nghiệm, Nghị quyết 24 đã xác định 3 quan điểm về công tác tôn giáo thời kỳ đổi mới:

Công tác tôn giáo vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách mạng.

Với quan điểm này, Đảng ta nhấn mạnh vấn đề quan trọng trong công tác tôn giáo là: chăm lo đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và đấu tranh chống sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch. Đặc biệt, Nghị quyết 24 mở ra việc giải quyết, công nhận về mặt tổ chức của các tôn giáo nếu hội đủ các điều kiện như: có đường hướng hoạt động tiến bộ, chuẩn bị tốt về nhân sự lãnh đạo… Sau khi được công nhận, tổ chức tôn giáo được thực hiện đầy đủ các hoạt động theo hiến chương, điều lệ (hoặc giáo luật) như việc tổ chức đại hội, hội nghị, việc đào tạo, phong chức, bổ nhiệm chức sắc, xuất bản kinh sách... Với quan điểm này, Đảng ta chú trọng giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng trong mối liên hệ không tách rời với đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo. Điều này nhằm khắc phục tình trạng ở một số địa phương quá nhấn mạnh chống địch lợi dụng tôn giáo mà chưa chú ý đến nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, trong đó có đồng bào có đạo.

Đối với quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc ở nước ta, tôn giáo đã và sẽ luôn luôn là một vấn đề lớn. Một mặt vì ở đây không phải chỉ có vấn đề thế giới quan, mà còn có vấn đề tình cảm tôn giáo của những tín đồ mà ta không được làm tổn thương. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã lưu ý khía cạnh tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, trong những giai đoạn lịch sử nhất định. C.Mác viết: “Từ những khái niệm về nhân quyền tuyệt nhiên không toát ra tính chất không thể tương dung giữa tôn giáo với những quyền của con người, ngược lại, trong những quyền đó có trực tiếp chỉ ra quyền được mộ đạo, được mộ đạo theo bất luận kiểu nào, được hành đạo theo tôn giáo riêng của mình. Đặc quyền tín ngưỡng là một quyền phổ biến của con người" (1). Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Tôn giáo do con người sáng tạo ra, bản thân những người này cảm thấy được nhu cầu cần phải có tôn giáo của quần chúng" (2). Tiếc rằng, trong thời điểm lịch sử châu Âu lúc bấy giờ, C.Mác, Ph.Ăngghen, sau này là VI.Lênin, chưa có điều kiện đi sâu vào khía cạnh tình cảm trong tôn giáo, mà chủ yếu đề cập đến vấn đề tôn giáo từ góc độ thế giới quan triết học và chính trị, nhất là vấn đề đấu tranh giai cấp.

Do vậy, trong giai đoạn hiện nay, “cái mà chúng ta quan tâm không phải là có thần hay không thần, mà là cách mạng hay không cách mạng, là yêu nước hay không yêu nước, là đoàn kết hay mất đoàn kết. Tôn giáo không phải là bầu trời huyền bí, mà là mảnh đất của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp hiện thực" (3). Chính vì thế, chúng ta thường tránh không bàn một cách trừu tượng đến tôn giáo nói chung mà nói đến một tôn giáo cụ thể, trong một xã hội nào đó và ở một thời kỳ lịch sử nào đó, với những hoạt động hết sức cụ thể. Tức phải có một cái nhìn cập nhật, cái nhìn hôm nay đối với vấn đề tôn giáo. Nó khác với cái nhìn hôm qua như thế nào?

Trước đây, trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, vấn đề tôn giáo được đặt ra chủ yếu nhằm làm thất bại âm mưu lợi dụng tôn giáo của bọn đế quốc và phản động tay sai, là loại bỏ ảnh hưởng chính trị phản động trong các tôn giáo, đưa quần chúng các tôn giáo đi theo sự lãnh đạo của Đảng, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước. Hiện nay, tình hình có nhiều đổi khác, vì vậy vấn đề tôn giáo cũng phải được nhìn nhận theo một cách khác. Vấn đề loại bỏ ảnh hưởng chính trị phản động trong các tôn giáo tuy vẫn là công việc thường xuyên, những không còn đặt ra một cách gay gắt và theo kiểu tư duy như trước nữa. Số đông quần chúng các tôn giáo đã hiểu chế độ mới, để giác ngộ về chủ nghĩa xã hội, tham gia đông đảo vào các phong trào yêu nước lao động sản xuất, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, xây dựng cuộc sống mới, đã hiểu được chính sách của Đảng đối với tôn giáo và sự tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân.

Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.

Với quan điểm này, Đảng ta đã đặt công tác tôn giáo thuộc phạm trù công tác xã hội, công tác quần chúng. Tôn giáo vận, do đó, là một hình thái đặc biệt và đặc thù của công tác dân vận. Sở dĩ như vậy vì từ năm 1945-1990, thực chất công tác tôn giáo được coi chủ yếu là công tác đánh địch lợi dụng. Khi đó, vấn đề tôn giáo bị các thế lực thù địch triệt để lợi dụng chống phá cách mạng, đã ảnh hưởng đến nhận thức, thái độ trong ứng xử với tôn giáo trong đội ngũ cán bộ các cấp, dẫn tới khuynh hướng tả khuynh, nhấn mạnh chủ nghĩa vô thần, sự đối lập ý thức hệ, định kiến chủ quan,… Vì vậy, nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo còn có những phiến diện, cho rằng công tác vận động quần chúng là phải chống địch lợi dụng tôn giáo, phải loại bỏ thứ thuốc phiện đầu độc nhân dân... Bởi vậy, trong đấu tranh, chúng ta còn thiên về ngăn cấm, trấn áp.

Trong công tác tôn giáo, tuy cũng nhấn mạnh nội dung công tác vận động quần chúng tín đồ, nhưng thực chất là cải tạo và tập trung vào vấn đề chống địch lợi dụng tôn giáo. “Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ chung đối với các tôn giáo là hết sức cảnh giác và kiên quyết đấu tranh, trấn áp bọn phản động; ra sức vận động quần chúng trong các tôn giáo tăng cường đoàn kết cùng toàn dân nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa...; đồng thời tích cực tuyên truyền, giáo dục quần chúng, nhất là lớp trẻ về nhân sinh quan và thế giới quan cách mạng, khoa học, giúp cho quần chúng dần dần thoát khỏi mê tín tôn giáo" (4).

Bước sang thời kỳ đổi mới, với việc nhìn nhận một cách nghiêm túc những sai sót, khuyết điểm trong quá khứ, Đảng đã có những thay đổi mang tính bước ngoặt về công tác tôn giáo, trong đó có công tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc, coi đây là nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo (Nghị quyết 24, 25). Và khi nói cốt lõi là công tác vận động quần chúng, Đảng ta nhấn mạnh bản chất và vai trò quyết định của nó trong công tác tôn giáo. Đồng bào tín đồ các tôn giáo vừa là công dân của đất nước, vừa là tín đồ của một tôn giáo nhất định. Là công dân, họ có mọi quyền và nghĩa vụ như mọi công dân khác. Là tín đồ, họ có niềm tin tôn giáo sâu sắc, coi đó như là một định hướng giá trị thiêng liêng không thể thiếu vắng trong cuộc sống. Họ có tình cảm, đời sống tâm linh ở nhiều mức độ khác nhau, có quyền và nghĩa vụ nhất định do giáo hội quy định, phải hành đạo theo giáo luật. Như vậy, ngoài việc đời, tín đồ tôn giáo còn tham gia việc đạo. Đây chính là đặc điểm quan trọng mà chủ thể công tác tôn giáo cần nắm vững, phải tạo điều kiện cho đồng bào tín đồ thực hiện được cả hai nghĩa vụ này.

Công tác vận động quần chúng là công tác đối với con người, không đơn thuần là tuyên truyền, giáo dục quần chúng, mà còn là chăm lo đời sống kinh tế xã hội cho nhân dân, trong đó có đồng bào có đạo. Việc tuyên truyền thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng không có nghĩa là giải phóng quần chúng khỏi niềm tin tôn giáo. Công tác vận động quần chúng cũng không nhằm tranh luận có hay không có đấng tối cao và thiên đàng, mà vận động quần chúng tín đồ các tôn giáo xây dựng cuộc sống no ấm, hạnh phúc ngay ở cuộc sống trần gian này.

Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo.

Mang nhiều nét đặc thù với sự tinh tế trong các mối quan hệ, công tác tôn giáo không chỉ là giải quyết chính sách đối với tín đồ, ứng xử đối với các chức sắc và tổ chức giáo hội, mà còn là công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo, không chỉ liên quan đến chính sách đối nội mà còn cả đối ngoại. Do vậy, Đảng ta đã xác định lực lượng làm công tác tôn giáo trong giai đoạn mới là toàn bộ hệ thống chính trị gồm: Đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng. Trong đó, Đảng giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, trực tiếp, toàn bộ hệ thống chính trị trong quá trình tiến hành công tác tôn giáo thông qua chủ trương, đường lối mang tính định hướng đối với tôn giáo nói chung và đối với từng tôn giáo cụ thể.

Nhà nước có chức năng quản lý hoạt động và công tác tôn giáo theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật, kiện toàn tổ chức, bộ máy làm công tác tôn giáo theo quy định của pháp luật, thể chế hóa chủ trương của Đảng bằng các văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo, thực hiện quản lý, đưa các hoạt động tôn giáo vào khuôn khổ của pháp luật.

Mặt trận và các đoàn thể nhân dân vận động quần chúng tiến hành công tác tôn giáo và thực hiện tốt chính sách tôn giáo.

3. Kết luận

Sự đổi mới của Đảng về công tác tôn giáo đã đem lại sự an tâm, phấn khởi lớn trong đồng bào có đạo. Điều đó thể hiện ở sự phát triển tích cực của đời sống tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian qua. Mục đích của một cái nhìn mácxít về vấn đề tôn giáo trong giai đoạn hiện nay chính là làm sao tăng cường được sự đoàn kết vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn như vậy, cần phải khắc phục một số nhận thức phiến diện nhìn nhận và hiểu tôn giáo một cách hẹp hòi, định kiến, như là một công cụ tinh thần của các thế lực thù địch với dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Mặt khác, cũng cần phải khắc phục một số lệch lạc trong thực tiễn như dùng mệnh lệnh chính quyền để giải quyết vấn đề tôn giáo, thô bạo, khe khắt gây phiền hà, thậm chí đi đến cấm đoán một số hoạt động tôn giáo bình thường của quần chúng, tạo khe hở cho những sự len lỏi mờ tối để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Cái chúng ta cần làm là chuyện trần thế, làm sao cho nhân dân (theo và không theo tôn giáo) có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng cao trong một quốc gia độc lập tự do, dân chủ, thân thiện. Đương nhiên, mọi sự lợi dụng tôn giáo để chống phá đất nước đều phải được ngăn chặn xử lý, để những tín đồ, chức sắc tôn giáo chân chính được hoạt động trong môi trường ổn định.

_______________

 

1. C.Mác, Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.546.

2. C.Mác, Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.438-439.

3, 4. Nguyễn Hồng Dương, Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề lý luận, Nxb Văn hóa Thông tin Viện văn hóa, Hà Nội, 2014, tr.418, 46-47.

 

Nguồn : Tạp chí VHNT số 378, tháng 12-2015

Tác giả : LÊ THỊ MINH THẢO

;