Những quan điểm tiếp cận mới trong công tác bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị di sản văn hóa qua con đường du lịch ở Việt Nam hiện nay

    1. Các quan điểm tiếp cận mới về bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị di sản văn hóa

    Quan điểm bảo tồn di sản văn hóa

    Bảo tồn nguyên trạng

    Bảo tồn nguyên trạng di sản văn hóa (DSVH) là cách thức và biện pháp để bảo vệ sự tồn tại của DSVH nhưng vẫn giữ nguyên trạng thái tồn tại như vốn có của nó trong những không gian nhất định của lịch sử. Bảo tồn nguyên trạng giữ được hình ảnh gốc, những thuộc tính ý nghĩa, những nội dung mà di sản hàm chứa và phản ánh được lịch sử gắn với sự tồn tại và phát triển của di sản đó.

    Bảo tồn phát triển

   Bảo tồn phát triển là cách thức và biện pháp khác được tiến hành nhằm mục đích bảo vệ sự tồn tại và tạo ra các hình thái mới của một sự vật, hiện tượng nào đó trong những không gian và thời gian xác định. Bảo tồn phát triển là sự kế thừa những cái đã có để phát triển, nâng nó lên tầm cao mới cho phù hợp, đáp ứng những yêu cầu của hiện tại hay những dự kiến cho tương lai.

    Cách tân văn hóa

    Cách tân văn hóa là cách thức và biện pháp để làm mới, bổ sung các yếu tố mang nội dung văn hóa để bổ trợ cho những hình thức và loại hình văn hóa trên cơ sở cái đã có. Cách tân văn hóa có ưu thế nổi bật là làm tăng thêm sự phong phú, đa dạng những giá trị văn hóa truyền thống của một nền văn hóa hay một thành tố văn hóa sẵn có nào đó. Đồng thời, sẽ mở ra sự “nhận diện thương hiệu mới” cho một sản phẩm văn hóa mới xuất hiện trong cuộc sống đương đại. Việc tiến hành quá trình cách tân văn hóa phải bám sát các nguyên tắc: tôn trọng quá khứ lịch sử, sáng tạo, khác biệt, phản ánh những định hướng mới cho hiện tại, dự báo tương lai.

    Quan điểm về bảo tồn động DSVH

    Bảo tồn động DSVH là cách thức và biện pháp đưa các hoạt động xã hội thích hợp vào trong môi trường mà các DSVH tồn tại và đưa các loại hình, thành tố nào đó của DSVH vào hoạt động xã hội trong môi trường phù hợp... Bảo tồn động DSVH tức là cho di sản sống cùng đời sống xã hội, đặc biệt, gắn di sản với hoạt động của kinh tế du lịch. Hoạt động này nhằm tận dụng và phát huy tốt nhất các sức mạnh nội và ngoại lực của các DSVH; đem lại những lợi ích khác nhau cho các đối tượng công chúng trong vai trò của du khách tham gia hoạt động trong môi trường di sản cũng như các cộng đồng và tổ chức quản lý di sản. Những lợi ích thu được từ các hoạt động du lịch sẽ chi phối trở lại các hoạt động của các di sản, tạo điều kiện cho di sản tồn tại và phát triển bền vững; nhân đó mà tài sản văn hóa được tăng thêm không ngừng, mang lại những lợi ích to lớn cho cộng đồng cư dân - chủ nhân của các DSVH.

    Quan điểm về khai thác giá trị của DSVH

    Trong kinh tế du lịch, văn hóa là một trong những nguồn tài nguyên, nguồn lực quan trọng nhất, là một dạng nguyên liệu để tạo ra sản phẩm du lịch mang tính đặc thù, do vậy cần khai thác giá trị các tài nguyên văn hóa để tạo ra sản phẩm du lịch. Điều cần nhấn mạnh là việc khai thác có chọn lọc các giá trị của văn hóa, tức là tìm ra các giá trị đặc sắc của văn hóa, đưa các giá trị đó vào cuộc sống, đem lại các giá trị đích thực cho con người. Khai thác giá trị của văn hóa sẽ làm tăng giá trị của văn hóa, tạo cho văn hóa có “đầu ra” là các sản phẩm du lịch! Đó chính là những giải pháp bảo tồn động các giá trị của văn hóa; là những biểu hiện tích cực của quá trình kinh tế hóa văn hóa trong hoạt động du lịch. Đi cùng với việc khai thác các giá trị của văn hóa là việc nâng cao hàm lượng văn hóa trong kinh doanh du lịch. Chính việc tiến hành đồng thời hai quá trình như vậy sẽ tạo ra sự phát triển bền vững của kinh tế du lịch, đồng thời góp phần quan trọng vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nâng văn hóa dân tộc lên những tầm cao mới với những vị thế mới, phù hợp trong thời đại mới.

    Quan điểm về phát triển DSVH

    Phát triển DSVH là quá trình mở rộng cả về hình thức và nội dung của một vài thành tố hay toàn bộ hệ thống DSVH của một địa phương, nhằm đạt được những mục đích khác nhau trong các giai đoạn nhất định của lịch sử. Trong quá trình phát triển, có 3 định hướng phát triển:

    Phát triển chiều sâu: tùy vào điều kiện thực tế cho phép để lựa chọn số ít lĩnh vực thuộc về di sản để tập trung phát triển theo chiều sâu, nhằm đạt được những mục đích chính, nổi bật nhất định nào đó.

   Phát triển toàn diện: là sự chú trọng đến toàn bộ các mặt hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho di sản có cơ hội được phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.

   Phát triển bền vững: là sự phát triển nhằm tạo ra tiền đề phát triển mọi mặt nhưng phải bảo vệ được môi sinh, môi cảnh, đi kèm với đó là phải đảm bảo công bằng xã hội để xây dựng và phát triển kinh tế tăng trưởng không ngừng; vừa đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại, không xâm hại đến lợi ích nhiều mặt, không làm giảm thiểu khả năng đáp ứng cho nhu cầu của các thế hệ tương lai.

   2. Các nhiệm vụ trong công tác bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị của DSVH qua con đường du lịch

   Để phát huy mạnh mẽ giá trị của kho tàng DSVH trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, cần mạnh dạn thay đổi tư duy và hành động; thay đổi cách tiếp cận mới trong quản lý DSVH với phát triển du lịch bằng việc đưa ra quan điểm về “lục biến” (1) trong hoạt động du lịch có liên quan đến DSVH. Tất cả những thay đổi trong lục biến đều là những công việc cụ thể nằm trong hai quá trình song hóa trong hoạt động du lịch: kinh tế hóa văn hóavăn hóa hóa kinh tế. Vì vậy, quan điểm lục biến chính là việc triển khai các nhiệm vụ cụ thể của văn hóa du lịch trong quá trình bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị của DSVH dân tộc qua con đường du lịch. Kinh doanh du lịch về thực chất là kinh doanh ấn tượng. Ấn tượng và sự khác biệt sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh, tạo nên sự hấp dẫn, sức hút cho du lịch. Ấn tượng và khác biệt của du lịch Việt Nam chính là việc khai thác có chọn lọc các giá trị của văn hóa dân tộc và tạo nên những đặc trưng của văn hóa kinh doanh trong hoạt động du lịch, đó là văn hóa du lịch. Để có được điều đó, cần có sự liên kết đa cấp độ, nhiều mặt, nhiều sắc thái khác nhau giữa các cá nhân và tổ chức kinh doanh du lịch để hoàn thành các nhiệm vụ:

    Biến di sản thành tài sản

    DSVH là một trong những tài nguyên, nguồn lực lớn nhất, quan trọng nhất của du lịch Việt Nam. Xuất phát từ khái niệm: “Di sản văn hóa là sự chung đúc và kết tinh các giá trị vật chất và tinh thần của các thế hệ người đi trước, trở thành tài sản của cả cộng đồng; được cộng đồng thừa nhận, tuân thủ, bảo tồn, phát triển và truyền trao cho các thế hệ kế tiếp” (2). Trong khi đó, tài sản là hiện vật và những giá trị khác khi đưa vào cuộc sống để tạo ra tiền. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản hiện có và hình thành trong tương lai. Như vậy, DSVH vốn mang thuộc tính của tài sản. DSVH này phải được tổ chức khai thác, phát huy có hiệu quả với tư cách một nguồn lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế thông qua con đường du lịch.

    Biến văn hóa thành hàng hóa

   Muốn biến văn hóa thành hàng hóa trong kinh tế du lịch, cần đánh giá “giá trị du lịch” của các tài nguyên văn hóa hiện hữu và tiềm ẩn; từ đó xác định nội dung, quy trình đầu tư, xây dựng để chuyển đổi, biến đổi các giá trị của văn hóa trở thành hàng hóa. Phải xuất phát từ các quan điểm về bảo tồn và khai thác DSVH khách quan khoa học mới thay đổi được phương cách tổ chức khai thác các DSVH phục vụ phát triển du lịch. Dưới góc độ kinh tế du lịch, chúng ta phải coi việc “biến” những giá trị của văn hóa thành hàng hóa, thành những hàng hóa đặc hữu là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.

    Biến tài nguyên thành tài chính

    Thông qua hoạt động du lịch, tổ chức khai thác, phát huy giá trị các dạng vật chất, tri thức có thể để tạo ra các sản phẩm hàng hóa đặc hữu; bán các sản phẩm hàng hóa đó với tư cách sản phẩm du lịch cho các đối tượng du khách khác nhau thông qua những phương thức riêng biệt để đem lại nguồn thu tài chính từ các hoạt động du lịch đặc thù này. Chỉ khi đưa các tài nguyên trở thành nguyên liệu của công nghiệp văn hóa (trong tình huống này là công nghiệp du lịch) thì mới tạo ra sản phẩm hàng hóa văn hóa và các hàng hóa văn hóa này, mang tư cách là các sản phẩm du lịch, sẽ đem lại nguồn thu tài chính cho kinh tế du lịch. Để làm tốt điều này cần đẩy mạnh nghiên cứu văn hóa theo hướng ứng dụng: biến những giá trị của văn hóa thành hàng hóa, đem lại các lợi ích kinh tế trong du lịch.

    Biến môi trường thành thị trường

    Xét về hoạt động, du lịch là hoạt động của con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình để khám phá, thẩm nhận và trải nghiệm các giá trị của cuộc sống. Trong quá trình du lịch, con người luôn gắn bó mật thiết với môi trường sống; sự gắn bó đó sẽ tác động đến môi trường theo hai hướng cơ bản: tích cực và tiêu cực. Trong nội dung này, chúng tôi không đề cập đến những tác động tích cực hay tiêu cực đến môi trường mà chúng tôi muốn đề cập tới việc tổ chức hoạt động du lịch trong những không gian và thời gian nhất định ở môi trường nào đó, lập tức khi đó môi trường trở thành thị trường dành cho những kẻ bán - người mua trong các dịch vụ du lịch. Phát triển loại hình du lịch văn hóa chính là những động thái để biến môi trường ở các DSVH trở thành thị trường. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển thị trường cần phải đặc biệt chú ý bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn. Điều đó trở thành tiền đề căn bản, yếu tố quyết định của sự phát triển bền vững của kinh tế - xã hội nói chung, trong đó có kinh tế du lịch.

    Biến nguồn lực thành động lực

    Văn hóa du lịch là khoa học nghiên cứu mối liên hệ phổ biến giữa những đối tượng, thành phần tham gia hoạt động du lịch, bao gồm 3 thành tố chính: con người - phương tiện - cơ chế điều tiết, kiểm soát hoạt động của con người trong du lịch. Giữa các thành tố tham gia hoạt động du lịch có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Cụ thể:

 

    Trong bất cứ một xã hội nào, nguồn lực phát triển kinh tế, xã hội cũng giữ vai trò quyết định sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế đó. Các nguồn lực này được khai thác, phát huy đúng sẽ tạo nên động lực của sự phát triển.

    Bản thân hoạt động du lịch mang tính động rất cao, tính khả biến, thích ứng cao của kinh tế du lịch đương nhiên đã biến các nguồn lực thành động lực của sự phát triển, thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Suy cho đến cùng thì tất cả mọi ngành kinh tế đều hướng tới để đạt được các lợi ích cung - cầu ngày càng tăng. Tuy nhiên, cung - cầu trong kinh tế du lịch là cung cầu văn hóa bởi bản chất và nội hàm của du lịch là văn hóa. Dưới góc độ này, muốn cho du lịch phát triển bền vững, phải nghiên cứu mối liên hệ phổ biến giữa các tiềm năng, nguồn lực du lịch của địa phương, đất nước với bộ máy tổ chức quản lý các hoạt động du lịch trên địa bàn đó để đưa ra những cách thức và biện pháp khai thác có hiệu quả những tài nguyên và nguồn lực du lịch. Đồng thời với đó là việc nâng cao hàm lượng văn hóa trong hoạt động kinh doanh, “văn hóa hóa” các mối quan hệ cung - cầu trong du lịch. Thông qua mối liên hệ phổ biến này, đánh giá tác động tương hỗ của hoạt động du lịch đến mọi mặt của đời sống xã hội; chỉ ra cách thức, biện pháp để khai thác, phát triển du lịch bền vững. Hai quá trình kinh tế hóa văn hóavăn hóa hóa kinh tế diễn ra đồng thời trong hoạt động du lịch cũng chính là quá trình biến nguồn lực trở thành động lực trong kinh tế du lịch.

    Biến giá trị thành giá cả

   Nền kinh tế thị trường chính là nền kinh tế hàng hóa; nền kinh tế của sự trao đổi, mua - bán các sản phẩm hàng hóa. Câu hỏi được sử dụng rất nhiều trong quá trình giao dịch, mua bán hàng hóa: How much? How many? (bao nhiêu?). Điều đó cho thấy giá cả giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa/kinh tế thị trường. Suy cho đến cùng, mọi người, mọi vật tồn tại đều phải trả lời hai câu hỏi lớn liên quan tới mình: giá trịgiá cả. Tuy nhiên, cái quyết định giá cả chính là giá trị của sản phẩm và cách thức cung cấp/chuyển giao giá trị sản phẩm! Người ta thường nói: văn hóa không có giá, văn hóa không đo được bằng tiền, giá cả của văn hóa không xác định được... Điều này có nghĩa: văn hóa là vô giá; giá cả của văn hóa khó mà đo đếm chung chung, muốn xác định giá cả của văn hóa phải thông qua những hoạt động cụ thể. Du lịch ngành kinh tế mà nội dung văn hóa của nó sẽ đem lại những giá trị cho kinh tế du lịch, giá trị đó được tính bằng tiền, mà tiền chính là giá cả. Từ logic trên cho thấy một trong những nhiệm vụ của văn hóa du lịch là biến giá trị thành giá cả. Thông qua hoạt động du lịch, các thành tố của văn hóa sẽ trở thành một hàng hóa đặc biệt: hàng hóa văn hóa.

    4. Kết luận

    Du lịch là hoạt động kinh tế, xã hội đặc thù mang tính phổ biến của xã hội hiện đại. Trong hoạt động này, nhu cầu đòi hỏi được hưởng thụ các giá trị văn hóa ngày càng cao là nhu cầu của mọi đối tượng du khách. Nhu cầu đòi hỏi được hưởng thụ các giá trị văn hóa trong quá trình tham gia hoạt động du lịch chính là nhu cầu về văn hóa du lịch. Trong quá trình kinh doanh du lịch, các cá nhân và tổ chức phải tiến hành kinh tế hóavăn hóa hóa các hoạt động để không chỉ đáp ứng các nhu cầu của du khách mà cần phải định hướng và tạo ra nhu cầu mới cho du khách. Bên cạnh việc thỏa mãn nhu cầu còn cần phải “kích cầu” cho du khách mới tạo ra sự phát triển tăng trưởng không ngừng. Những thay đổi trong tư duy và hành động trong quá trình bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị của di sản văn hóa Việt Nam sẽ đem đến thành công.

    Có thể nói, du lịch chính là công cụ, phương tiện kết nối các nền văn hóa. Du lịch lấy văn hóa làm nền tảng - văn hóa lấy du lịch làm động lực. Sự gặp gỡ và giao thoa văn hóa thông qua hoạt động du lịch vừa thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, vừa thể hiện sự tiếp biến và giao thoa văn hóa trong tiến trình phát triển. Quá trình thay đổi nhận thức và chuyển biến hành động trong công cuộc bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị DSVH qua con đường du lịch là những yêu cầu, điều kiện cần thiết, tất yếu của kinh doanh du lịch hiện đại. Làm tốt những điều đó là chúng ta đã góp phần xây dựng văn hóa du lịch Việt Nam. Du lịch dành cho tất cả mọi người, nhưng văn hóa du lịch chỉ dành cho những người có hiểu biết, có văn hóa! Xác định những quan điểm tiếp cận mới; những nhiệm vụ cụ thể của văn hóa du lịch chính là những động thái tích cực, chủ động góp phần đưa du lịch sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn ở Việt Nam.

______________

1. Lục biến bao gồm: biến di sản thành tài sản, biến văn hóa thành hàng hóa, biến tài nguyên thành tài chính, biến nguồn lực thành động lực, biến môi trường thành thị trường, biến giá trị thành giá cả.

2. Dương Văn Sáu, Di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng Việt Nam, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2017, tr.25.

Tác giả: Dương Văn Sáu

Nguồn: Tạp chí VHNT số 423, tháng 9-2019

;