Nâng cao hiệu quả chính sách quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam hiện nay

Trong thời gian qua, ở các cấp độ khác nhau, chính sách quản lý và phát triển văn hóa ở nước ta nói chung và chính sách quản lý, phát triển nghệ thuật biểu diễn nói riêng đã có những đổi mới theo hướng xây dựng, bổ sung những quy định, từng bước hoàn thiện khung chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Hoạt động nghệ thuật biểu diễn phát triển theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương từng bước tăng cường từ kiểm duyệt đến kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm; các tổ chức, cá nhân được tạo điều kiện sáng tạo nghệ thuật, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân đồng thời được củng cố, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, đây là hoạt động hết sức phức tạp, có nhiều thay đổi, vì vậy, công tác quản lý và phát triển có những khó khăn nhất định.

1. Chính sách và vai trò của chính sách trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn

Trong báo cáo mới nhất của UNESCO, Reshaping Cultural Policies Advancing creative for development (Tái định hình các chính sách văn hóa, thúc đẩy sáng tạo và phát triển) (năm 2018), chính sách văn hóa (CSVH) là: hành động thực hành của Nhà nước nhằm các mục tiêu phát triển và quản lý; các chính sách được vận hành bởi các cơ quan của Chính phủ. Quá trình xây dựng chính sách được đặt trên hướng tăng cường sự tham gia của các bên có liên quan; đối tượng, mục tiêu cụ thể và các nguồn lực để thực thi chính sách khác nhau tùy vào từng thời điểm (1). Như vậy, có thể thấy, tùy vào từng giai đoạn phát triển, mỗi Chính phủ sẽ có những ưu tiên nguồn lực khác nhau để thực thi các mục tiêu phát triển và quản lý văn hóa cụ thể.

CSVH là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các cách thực hành, các phương pháp quản lý hành chính và phương pháp sử dụng ngân sách của Nhà nước dùng làm cơ sở cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Rõ ràng, một CSVH không thể phù hợp với mọi quốc gia; mỗi quốc gia thành viên của UNESCO quyết định CSVH cho mình theo các giá trị văn hóa, những mục tiêu và những lựa chọn của quốc gia đó (2). Đối với Việt Nam, quan niệm CSVH đã được xác định dựa trên những quan niệm về văn hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển đất nước, xây dựng con người mới của chế độ mới.

Chính sách quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam là hệ thống các nguyên tắc, thực hành của Nhà nước trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn dựa trên những định hướng, chủ trương, đường lối về văn hóa của Đảng và tổng thể các biện pháp can thiệp của Nhà nước nhằm quản lý và phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Chính sách quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn được thể chế hóa dưới nhiều dạng văn bản: hiến pháp; văn bản quy phạm pháp luật; những văn bản quản lý mang tính định hướng, hướng dẫn như chiến lược, quy hoạch, đề án, chương trình hành động và cả những văn bản như quyết định, quy định, kế hoạch liên quan đến các biện pháp thực thi những nguyên tắc, quy định chung về văn hóa, về nghệ thuật biểu diễn nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.

Chính sách trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn có nhiều vai trò như: định hướng, điều tiết, quản lý sự phát triển nghệ thuật biểu diễn; tạo cơ chế, tập trung, kiểm soát và phân bổ các nguồn lực cho phát triển nghệ thuật biểu diễn; tạo động lực cho các đối tượng/ các bên liên quan tham gia vào quá trình chính sách; tạo môi trường thích hợp cho các hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Trong đó, vai trò quản lý nhà nước và thúc đẩy sự phát triển nghệ thuật biểu diễn là những vai trò then chốt.

2. Một số chính sách về quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn

Về quan điểm chỉ đạo, chủ trương lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn có nhiều thay đổi về tầm nhìn chiến lược. Trong thời gian trước năm 2013, Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới đặt ra nhiệm vụ: “ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt, xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch” và đề xuất một số giải pháp, trong đó có giải pháp quan trọng là: “xây dựng cơ chế quản lý và chế tài ngăn chặn, xử lý các hoạt động sáng tác, truyền bá những sản phẩm văn học, nghệ thuật có nội dung, tư tưởng nghệ thuật thấp, ảnh hưởng xấu tới xã hội; xây dựng các đạo luật điều chỉnh lĩnh vực văn học, nghệ thuật, trước mắt sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí, Luật Xuất bản… có những chế tài nâng cao trách nhiệm trong việc thẩm định, đánh giá, quyết định công bố, trình diễn, truyền bá các tác phẩm, đặc biệt trên hệ thống thông tin đại chúng, phát thanh, truyền hình, dịch vụ biểu diễn nghệ thuật”. Sau thời điểm Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã xác định 5 mục tiêu cụ thể, trong đó có: “Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa đảm bảo xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.

Trước đây, công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn chủ yếu căn cứ vào 2 quy chế do Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) ban hành: Quy chế hoạt động biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số 47/2004/QĐ-BVHTT ngày 2-7-2004; Quy chế sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu hành, kinh doanh băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình ca nhạc - sân khấu, ban hành kèm theo Quyết định số 55/1999/QĐ-BVHTT ngày 5-8-1999 và một số điều, khoản được quy định trong Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18-1-2006; Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 6-11-2009 của Chính phủ ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng.

Từ năm 2012 đến nay, với việc Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 5-10-2012, quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu và Nghị định số 15/2016/NĐ-CP ngày 15-3-2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 79/2012/NĐ-CP, công tác quản lý nhà nước về hoạt động nghệ thuật biểu diễn từng bước giải quyết các mâu thuẫn, khắc phục dần những hạn chế, vướng mắc trong công tác áp dụng, thống nhất trong phạm vi cả nước.

Ngày 9-1-2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 88/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án Quy hoạch và kế hoạch nâng cấp, xây mới các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học nghệ thuật) giai đoạn 2012-2020 với mục tiêu chung: Hoàn thiện hệ thống các công trình văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu về đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, đặc biệt các khu vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế khó khăn. Từng bước đầu tư nâng cấp, xây dựng mới các công trình văn hóa có chất lượng cao, hiện đại, tầm cỡ khu vực ở các thành phố, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của đất nước (3).

Ngày 19-9-2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1456/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, với 3 quan điểm: Phát triển nghệ thuật biểu diễn nhằm góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Phát triển nghệ thuật biểu diễn theo định hướng ưu tiên đầu tư bồi dưỡng nguồn nhân lực, hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành, từng vùng, bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật truyền thống, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa nghệ thuật thế giới, xây dựng và phát triển các loại hình nghệ thuật biểu diễn hiện đại; Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động nghệ thuật biểu diễn, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực nghệ thuật biểu diễn theo quy định của pháp luật (4).

Ngày 14-12-2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 144/2020/NĐ-CP quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Về mục đích, quan điểm xây dựng, Nghị định số 144/2020/NĐ-CP được xây dựng nhằm đạt mục đích thực hiện quan điểm, đường lối chỉ đạo: Định hướng phát triển nghệ thuật, “phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ, phản ánh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước” thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Hoàn thiện hệ thống pháp luật về nghệ thuật biểu diễn trong thời kỳ mới, bảo đảm sự nghiệp “phát triển văn học, nghệ thuật đáp ứng nhu cầu tinh thần đa dạng và lành mạnh của nhân dân” được quy định tại Khoản 2, Điều 60 Hiến pháp năm 2013; Thống nhất với hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động thương mại, hoạt động đầu tư kinh doanh đồng thời mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường nghệ thuật biểu diễn và tiến tới hội nhập nền thương mại toàn cầu; Thể chế giải pháp thực hiện chính sách, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về xây dựng Chính phủ kiến tạo và phân cấp quản lý nhà nước.

3. Một số kết quả thực thi chính sách quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn

Về công tác quản lý, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với quản lý văn hóa luôn gắn với mục đích xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Hoạt động nghệ thuật biểu diễn có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, luôn thu hút đông đảo quần chúng tham gia, góp phần giáo dục, định hướng về đạo đức, thẩm mỹ, lối sống và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Công tác quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn đã đạt được những kết quả nhất định. “Theo báo cáo của Bộ VHTTDL, các Sở Văn hóa, Thể thao và Sở VHTTDL, các địa phương đã triển khai có hiệu quả công tác quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn; tổ chức tốt các hoạt động văn hóa nghệ thuật phục vụ nhân dân, nhất là bà con vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo; biểu diễn giao lưu đối ngoại phục vụ nhiệm vụ chính trị với các chương trình chất lượng nghệ thuật cao” (5).

Về quy trình quản lý nhà nước hoạt động nghệ thuật biểu diễn theo hình thức tiền kiểm: việc thẩm định, phê duyệt nội dung hoạt động nghệ thuật biểu diễn trong thời gian đầu đã làm tốt chức năng ngăn chặn thông tin độc hại, lệch lạc về tư tưởng, đạo đức. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi cho thấy một số tổ chức, cá nhân, đặc biệt là doanh nghiệp đã vận dụng linh hoạt các quy định tiền kiểm để kinh doanh, thu lợi, thậm chí một số trường hợp lợi dụng để kinh doanh trục lợi, hoặc sử dụng quy định tiền kiểm văn hóa để lẩn tránh quy định của pháp luật. Về phân cấp quản lý nhà nước hoạt động nghệ thuật biểu diễn: các nội dung phân cấp quản lý nhà nước hoạt động nghệ thuật biểu diễn chưa thật sự phù hợp, dẫn đến phát sinh bất cập trong trường hợp cơ quan hành chính ở địa phương thiếu quyền hạn quản lý và hạn chế áp dụng hình thức xử lý khi có các vi phạm hành chính trên địa bàn quản lý nếu các trường hợp này được Bộ VHTTDL cấp giấy phép. Về thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trong quản lý nhà nước hoạt động nghệ thuật biểu diễn: cho đến nay, các quy định pháp luật về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan tại Việt Nam đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động sáng tạo. Thực hiện chủ trương đơn giản hóa thủ tục hành chính và tạo cơ chế tự chịu trách nhiệm, chủ động trong hoạt động kinh doanh, sản xuất bản ghi âm, ghi hình của các doanh nghiệp.

Về công tác phát triển nghệ thuật biểu diễn: Việc bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật truyền thống được nhiều địa phương quan tâm thực hiện thông qua việc khuyến khích thành lập các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn các loại hình nghệ thuật đặc sắc. Các địa phương cũng quan tâm, tập trung chỉ đạo phát triển thị trường cho tác phẩm sân khấu, âm nhạc, chương trình biểu diễn, đồng thời bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống dân tộc kết hợp với các loại hình nghệ thuật đương đại, tạo ra nhiều tác phẩm chất lượng cao, thể hiện được tính sáng tạo, độc đáo của nghệ thuật truyền thống. Ví dụ show diễn thực cảnh Tinh hoa Bắc Bộ, Ký ức Hội An cho thấy thành công trong việc kết hợp nghệ thuật truyền thống với hiện đại. Trong nhiều năm trở lại đây, các địa phương nỗ lực đẩy mạnh chính sách xã hội hóa các hoạt động nghệ thuật biểu diễn, tạo điều kiện cho mọi tầng lớp xã hội được tham gia hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa; khuyến khích phát triển các đơn vị nghệ thuật ngoài công lập; đẩy mạnh tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp với đặc điểm từng loại hình nghệ thuật. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực, khuyến khích tài năng, sáng tạo, ưu đãi văn nghệ sĩ trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn cũng được địa phương triển khai, thực hiện; tạo điều kiện cho đạo diễn, nhạc sĩ, biên kịch, diễn viên, người dẫn chương trình được tham gia các lớp bồi dưỡng, đào tạo nâng cao nghiệp vụ (6).

Mặc dù công tác phát triển nghệ thuật biểu diễn trong những năm qua đã đạt được một số kết quả nhất định, nhưng thực tế triển khai Quyết định số 88/QĐ-TTg ngày 9-1-2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Quy hoạch và kế hoạch nâng cấp, xây mới các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học nghệ thuật) giai đoạn 2012-2020 còn nhiều bất cập, hạn chế do những nguyên nhân khách quan, chủ quan. Cho đến nay, vẫn chưa có báo cáo kết quả triển khai, thực hiện Quyết định số 88/QĐ-TTg và Quyết định số 1456/QĐ-TTg ngày 19-8-2014, của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

Ngoài ra, còn một số khó khăn vướng mắc như việc xây dựng dự thảo nghị định mới về nghệ thuật biểu diễn, thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành nghị định cần nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp với một số nội dung trong các văn bản mới ban hành; tiếp tục rà soát, đánh giá những khó khăn bất cập của chính sách về phổ biến tác phẩm âm nhạc sân khấu. Việc sáp nhập các đơn vị nghệ thuật ở địa phương và hợp nhất các đơn vị nghệ thuật chuyển sang hình thức ngoài công lập vào trung tâm văn hóa thành một đầu mối đã phát sinh nhiều bất cập; cơ sở vật chất nhiều đơn vị nghệ thuật biểu diễn xuống cấp trầm trọng; kinh phí đầu tư hạn hẹp; khó khăn trong việc đào tạo, tuyển chọn diễn viên, nhạc công nghệ thuật truyền thống; cơ chế chính sách đặc thù cho nghệ sĩ còn chậm và chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn (7).

4. Giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn

Xuất phát từ thực tiễn, để quản lý và phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn hiệu quả hơn, về mặt chính sách cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nghệ thuật biểu diễn. Đội ngũ cán bộ quản lý có vai trò trung tâm trong quá trình thực thi các chính sách, do vậy, nâng cao năng lực của đội ngũ quản lý, đáp ứng yêu cầu thực tiễn quản lý rất quan trọng. Đào tạo lại, đào tào nâng cao, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý các nội dung, yêu cầu quản lý, yêu cầu chuyên môn để đội ngũ thực thi các chính sách quản lý nghệ thuật đáp ứng được yêu cầu công việc. Tránh tình trạng một số cán bộ quản lý thực thi các chính sách quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn vẫn còn có những lúng túng, sai sót dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, gây dư luận không tốt trong xã hội.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế về nghệ thuật biểu diễn. Trong giai đoạn hiện nay, việc thể chế nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động nghệ thuật biểu diễn theo Nghị định của Chính phủ là cần thiết nhằm kịp thời giải quyết những bất cập phát sinh trong quá trình thực thi và các mâu thuẫn phát sinh giữa các quan hệ xã hội trong thực tiễn. Hiện nay, Nghị định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn là căn cứ pháp lý cao nhất để cơ quan quản lý nhà nước cũng như tổ chức, cá nhân thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Tuy nhiên, cần tiến tới xây dựng và ban hành Luật Nghệ thuật biểu diễn và các văn bản liên quan để bổ sung và từng bước hoàn thiện thể chế về nghệ thuật biểu diễn để việc quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn đạt kết quả cao hơn.

Thứ ba, tiếp tục hoạch định, ban hành chiến lược, quy hoạch, đề án phát triển nghệ thuật biểu diễn theo từng giai đoạn, đồng thời phân bổ nguồn lực hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, thực hiện có hiệu quả thực chất và bền vững các chiến lược, quy hoạch, đề án. Các chiến lược, quy hoạch, đề án mang tính định hướng dài hạn, tuy nhiên để đạt được các mục tiêu đã đề ra thông qua các giải pháp, kế hoạch hoạt động, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn cần được phân bổ những nguồn lực thích đáng và kịp thời hơn nữa. Nếu không có các nguồn lực thích đáng, kết quả thực thi các chiến lược, quy hoạch, đề án, kế hoạch sẽ rất hạn chế. Sau khi kết thúc việc thực thi các chiến lược, quy hoạch, đề án, kế hoạch cần tổng kết, đánh giá toàn diện những kết quả đã đạt được, rút ra những bài học kinh nghiệm để làm cơ sở cho việc hoạch định các chiến lược, quy hoạch, đề án tiếp theo.

Thứ tư, phân cấp quản lý nhà nước cho chính quyền, cơ quan hành chính ở địa phương trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, từng cơ quan trong hệ thống tổ chức hành chính nhà nước, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất của Chính phủ; phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương; khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế, nguồn lực của các địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước, xây dựng Chính phủ điện tử và hội nhập quốc tế. Ứng dụng công nghệ vào công tác quản lý nghệ thuật biểu diễn, đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Thứ năm, tạo môi trường thuận lợi bảo đảm hài hòa quyền sáng tạo và hưởng thụ văn hóa nghệ thuật của nhân dân. Không chỉ quan tâm đến quyền được tiếp cận, hưởng thụ văn hóa của nhân dân mà quyền được sáng tạo, được tham gia vào quá trình sản xuất, phân phối các sản phẩm, dịch vụ văn hóa cũng rất quan trọng. Đồng thời phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại một cách chủ động, có chọn lọc. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực trong xã hội cho việc phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt Nam giàu bản sắc dân tộc, hiện đại. Quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn phù hợp với bối cảnh hiện nay.

Thứ sáu, tăng cường đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị. Xây mới kết hợp nâng cấp, cải tạo hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác biểu diễn, phát triển nghệ thuật biểu diễn, đáp ứng nhu cầu phát triển nghệ thuật biểu diễn trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nền văn học nghệ thuật tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhà nước cần có chính sách đãi ngộ thích đáng cho đội ngũ nghệ sĩ, nghệ nhân trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Thứ bảy, đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nghệ thuật biểu diễn để không chỉ các cơ quan, tổ chức, cá nhân làm công tác quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn mà tất cả các bên liên quan trong quá trình hoạch định, thực thi chính sách cần được cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin. Công tác phổ biến tuyên truyền tốt sẽ nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, vì vậy cần đa dạng các hình thức phổ biến, tuyên truyền chính sách như: gửi văn bản, tổ chức các buổi học tập, phổ biến chính sách, tuyên truyền trực quan, tuyên truyền lưu động, sân khấu hóa.

Tóm lại, CSVH có vai trò quan trọng trong quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn. Trong những năm qua, việc thực thi chính sách quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy vậy, để khắc phục một số bất cập, đồng thời nâng cao hiệu quả chính sách quản lý và phát triển nghệ thuật biểu diễn cần triển khai đồng bộ các giải pháp về hoạch định và thực thi chính sách.

_______________________

1. UNESCO, Reshaping Cultural Policies Advancing creative for development (Tái định hình các chính sách văn hóa, thúc đẩy sáng tạo và phát triển), UNESCO Global Report 2018 (UNESCO Báo cáo toàn cầu 2018), tr.69-83.

2. UNESCO, Cultural policy a preliminary study (Chính sách văn hóa - một nghiên cứu sơ bộ), unesdoc.unesco.org, 1969, tr.7.

3. Quyết định số 88/QĐ-TTg ngày 9-1-2013, của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Quy hoạch và kế hoạch nâng cấp, xây mới các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học nghệ thuật) giai đoạn 2012-2020.

4.. Quyết định số 1456/QĐ-TTg ngày 19-8-2014, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, tr.1.

5, 7. Phan Văn Tú, Chính sách văn hóa trong quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn ở nước ta hiện nay, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 464, 2021, tr.47, 47.

6. Bộ VHTTDL, Báo cáo, số 34/BC-BVHTTDL ngày 9-3-2021 về Kết quả triển khai, thực hiện Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, 2021, tr.6-7.

Tài liệu tham khảo

1. Lê Thị Hiền, Phạm Bích Huyền, Lương Hồng Quang, Nguyễn Lâm Tuấn Anh, Giáo trình chính sách văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009.

2. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (hiện hành) (sửa đổi bổ sung năm 2020), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2020.

3. Nghị định số 144/2020/NĐ-CP của Chính phủ Quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn, ngày 14-12-2020.

TS NGUYỄN THỊ ANH QUYÊN

Nguồn: Tạp chí VHNT số 497, tháng 5-2022

;