MỘT GỢI Ý VỀ VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH LỊCH SỬ CÁCH MẠNG KHÁNG CHIẾN

Các di tích lịch sử cách mạng kháng chiến (DTLSCMKC) là điểm đến khá phổ biến của công chúng và du khách trong thời gian gần đây. Khách tham quan loại hình di tích này có thể là các cựu chiến binh, thân nhân, bạn bè của những người đang sống và đã hy sinh; lớp trẻ muốn tri ân công lao của cha anh; những người yêu hòa bình, nhà nghiên cứu lịch sử muốn đến Việt Nam để thăm, trải nghiệm và suy ngẫm về một thời chiến tranh… Tuy nhiên, các hoạt động của di tích chủ yếu ở lĩnh vực bảo tồn và giáo dục truyền thống thông qua hệ thống đoàn hội ở các trường phổ thông, cao đẳng, đại học. Các quan điểm về bảo tồn và phát huy giá trị di tích chưa được thống nhất. Việc xác định những cơ sở lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị di tích, phục vụ phát triển du lịch là việc cần thiết, nhằm hỗ trợ các nhà quản lý trong việc đưa ra các chính sách và chiến lược bảo tồn, phát huy giá trị di tích. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin giới thiệu quan điểm của nhà nghiên cứu Peter Howard về tính xác thực của di sản, như một gợi ý về việc bảo tồn và phát huy giá trị các di tích DTLSCMKC.

Di tích lịch sử cách mạng kháng chiến

Nằm trong nhóm di tích lịch sử văn hóa, DTLSCMKC là các công trình xây dựng, địa điểm gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu, những nhân vật lịch sử dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là những công trình kiến trúc có sẵn như nhà ở, đường phố, cầu, bến cảng...; công trình phục vụ mục đích sử dụng như địa đạo, hầm bí mật…; công trình phục vụ tín ngưỡng tôn giáo (chùa, miếu, đình, đền) nhưng gắn với những nhân vật lịch sử, những sự kiện lịch sử cách mạng kháng chiến tiêu biểu mà trở thành DTLSCMKC.

DTLSCMKC, hay nói ở phạm vi bao quát hơn là di sản cách mạng, bao gồm di sản vật thể (di tích, các hiện vật, di vật) và di sản phi vật thể (các câu chuyện, sự kiện diễn ra tại di tích). Các di sản này phản ánh quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc, với các phong trào yêu nước cũng như các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mỹ từ giữa TK XX…

Có thể liệt kê một số di tích lịch sử cách mạng kháng chiến ở các tỉnh thành như: Điện Biên Phủ (di tích Điện Biên Phủ), Tuyên Quang (Tân Trào), Thái Nguyên (ATK Định Hóa), Quảng Bình (hang Tám Cô, đường 20), Quảng Trị (địa đạo Vĩnh Mốc, cầu Hiền Lương, Nghĩa trang Trường Sơn, thành cổ Quảng Trị, Khe Sanh, đảo Cồn Cỏ), Hà Tĩnh (ngã ba Đồng Lộc), Quảng Ngãi (di tích Sơn Mỹ, di tích Bệnh xá bác sĩ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm), TP.HCM (địa đạo Củ Chi), Bà Rịa -Vũng Tàu (di tích lịch sử cách mạng Côn Đảo), Đồng Nai (chiến khu D), Bình Phước (căn cứ Tà Thiết), Tây Ninh (căn cứ Trung ương cục Miền Nam)…

Điểm mạnh về việc bảo tồn của các DTLSCMKC là vấn đề hồ sơ, tư liệu của di tích. Các di tích loại hình này chủ yếu xuất hiện trong thời gian không quá xa. Chính vì vậy, các di tích được phát hiện, bảo tồn sớm, có nhiều tư liệu liên quan đến di tích, hỗ trợ các hoạt động của di tích. Tuy nhiên, ở góc độ khác, một số DTLSCMKC chủ yếu nằm trong rừng sâu, hẻo lánh, với các công trình kiến trúc tạm thời như hầm, lán trại… bằng các vật liệu dễ bị hư hỏng (mây, tre, cây rừng…). Điều này đã giảm đi phần nào nhiều yếu tố xác thực của di tích.

Công tác bảo tồn các DTLSCMKC được chú trọng, các hoạt động phát huy giá trị di tích được đa dạng hóa phù hợp với nhu cầu người dân và cộng đồng trong xã hội đương đại (các chương trình về nguồn, du lịch hoài niệm, tổ chức các hoạt động đoàn thể, các chương trình truyền hình...). Vì vậy, các hoạt động có những nét chấm phá, tạo ấn tượng sâu sắc hơn cho công chúng. Các DTLSCMKC đã tổ chức nhiều chương trình thiết thực nhằm thu hút khách tham quan với các câu chuyện chân thật, cảm động. Những nhân vật liên quan đến di tích như các nhà quân sự, những người lính… đã được mời đến nói chuyện và trực tiếp kể về những câu chuyện của mình. Những chương trình ấy đã tạo được ấn tượng của công chúng đối với di tích, tăng cường sự phát triển du lịch đối với các DTLSCMKC.

Bên cạnh đó, nhiều DTLSCMKC chỉ dừng lại ở việc bảo tồn nguyên trạng. Hoạt động khai thác, phát huy giá trị di tích, phát triển công tác giáo dục di tích hoạt động chưa thực sự có hiệu quả.

Peter Howard và quan điểm về tính xác thực của di sản

Theo cách giải nghĩa của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, xác thực (authentication) là “thật hoặc chính cống”(1). Xác thực là thuật ngữ được “bắt nguồn từ chữ Hy Lạp: authentes, có nghĩa là được làm bởi chính tay một người, đầu tiên, chính cống”(2). Tính xác thực được sử dụng trong lĩnh vực di sản (cụ thể đối với các di tích) thường được đề cập đến như là tính nguyên gốc. Tiêu chí của UNESCO trong việc xếp hạng di sản thế giới có sự phân biệt giữa di sản thiên nhiên và di sản văn hóa. Các tiêu chí văn hóa, do ICOMOS (Hội đồng Quốc tế các Di tích và Di chỉ) đưa ra, có khẳng định về tính xác thực; còn IUCN (Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên), khi xem xét các di sản thiên nhiên, yêu cầu tính toàn diện hoặc tính nguyên vẹn. Thực tế, Thực tế, quan điểm về tính xác thực của di sản rất đa dạng và được chia thành nhiều loại, với nhiều cách tiếp cận khác nhau.

Quan điểm của Peter Howard về tính xác thực dựa trên sự tổng hợp các quan điểm của Viollet Le Duc (1814 - 1879) nhà kiến trúc sư, lý thuyết gia Pháp, nổi tiếng với cách diễn giải về việc phục hồi các tòa nhà cổ (3); John Ruskin (1819 - 1900) nhà phê bình nghệ thuật Anh (4); William Morris (1834 - 1896) nghệ sĩ, nhà hoạt động xã hội Anh, một trong những người sáng lập Hiệp hội bảo vệ các tòa nhà cổ (5); G.J.Ashworth - giáo sư về quản lý di sản và du lịch đô thị, Trường Đại học Groningen, Hà Lan (6).

Nếu như Viollet Le Duc cho rằng việc phục hồi các tòa nhà, các công trình kiến trúc cổ nên có sự thay đổi và sáng tạo, đặc biệt là nội thất các công trình này thì ngược lại, John Ruskin và William Morris phản đối quan điểm phục hồi như vậy. Quan điểm của Ruskin và Morris là bảo tồn như vốn có, không nên cố tái tạo cái đã từng ở đó và không nên che dấu sự sửa chữa cần thiết. “Giả vờ và mô phỏng là không thể chấp nhận được” (7). Peter Howard đồng tình với quan điểm của G. J. Ashworth về sự đa dạng của tính xác thực. Dưới đây là nguyên văn cách phân tích của Howard:

“Nơi một tượng đài gồm một tòa nhà được dựng lên cùng một lúc, có thể sử dụng ngày nó được dựng lên đầu tiên làm mốc thời gian và tất cả mọi nỗ lực để khôi phục hay sửa chữa nó đều được nhìn nhận liên quan đến mốc thời gian đó. Điều này hiếm thấy trong các lĩnh vực di sản khác cũng như với nhiều tòa nhà. Đây là tính xác thực của niên đại. Song song chặt chẽ với điều này là tính xác thực của vật liệu. Liệu loại đá được sử dụng để sửa chữa có được lấy từ cùng một mỏ như loại đá gốc không? Trong một chuyến viếng thăm gần đây tới một ngôi nhà được xây dựng lần đầu tiên vào khoảng năm 1400, nhưng đã được sửa đổi mỗi thế kỷ từ đó đến nay, người hướng dẫn khảo cổ vỗ vào một lò sưởi bằng đá lớn và nói “tất nhiên nó là thật”,  có nghĩa là nó tồn tại từ TK XVIII sử dụng nguyên liệu thông dụng thời đó. Những quy định hiện đại dẫn đến lệnh rằng tòa không được đâm thủng những bức tường cổ, vì vậy nỗ lực xây một cái bếp và những công trình phụ khác phù hợp với người dân sống trong TK XX dẫn đến việc xây những mảng tường vữa không giá đỡ, hoàn toàn không ăn khớp với một tòa nhà có chất lượng.

Hầu như tất cả mọi thứ đều thể hiện các yếu tố xác thực. Thế giới Disney (Disney World) hoàn toàn là một công viên chuyên đề xác thực của TK XX. Tương tự, rất ít thứ xác thực một cách hoàn toàn. Rất ít người bảo tồn xe ô tô, ví dụ, lắp phụ kiện vào. Nếu chúng, trên thực tế, giống hoàn toàn khi rời nhà máy và chưa lái đi một dặm nào, thì đó là loại xác thực nào?

Cũng có sự xác thực của địa điểm. Liệu tòa nhà, hay bất cứ di sản nào khác, bị đưa ra khỏi vị trí ban đầu của nó và mang cấy vào nơi nào khác, như cây Cầu Luân Đôn, được dựng ở miền Tây nước Mỹ, có xác thực không? Đồng thời có tính xác thực của chức năng và rất nhiều bảo tàng hiện nay có thể công nhận rằng việc trưng bày một cái rìu tay như nó là một tác phẩm nghệ thuật làm giảm đi nhiều giá trị của tính xác thực của hiện vật, giống như trường hợp với nhà thờ thời trung cổ được biến đổi thành văn phòng làm việc hoặc thậm chí thành một bảo tàng.

Cũng có thể có tính xác thực của sự trải nghiệm. Ít nhất có thể tưởng tượng rằng công viên chuyên đề có thể tạo ra một trải nghiệm sống trong một ngôi nhà Viking (của người Xcangđinavi - Bắc Âu) thực tế hơn nhiều là ở trong một ngôi nhà Viking thực sự. Tương tự như vậy, tuy nhiên, dù người ta có nỗ lực đến mấy để tái tạo các nhạc cụ của TK XV và phong cách chơi nhạc thời đó, trải nghiệm của việc nghe những nhạc cụ đó rõ ràng là không xác thực vì chúng ta nghe chúng với cái tai của TK XXI (8).

Đồng thời, Peter Howard đưa ra các phiên bản của tính xác thực trên cơ sở chỉnh lý và phát triển từ biểu đồ của G.Ashworth và chính ông:

 

Các phiên bản của tính xác thực

Mô tả

Ví dụ của lĩnh vực di sản

Người sáng tạo

Bàn tay của nghệ nhân

Có thể chứng minh là như vậy bởi một kiến trúc sư cụ thể

Nguyên liệu

Nguyên liệu gốc

Nó được hình thành bởi loại đá gốc...

Chức năng

Mục đích đầu tiên

Nó vẫn được sử dụng như là, ví dụ, nhà thờ

Khái niệm

Ý tưởng của người sáng tạo

Đó là điều kiến trúc sư chủ định, thậm chí nó có nghĩa là phục hồi

Lịch sử

Lịch sử của hiện vật

Nó thuộc về một thời kỳ đúng và tất cả những thay đổi đối với tòa nhà đều được duy trì thích hợp

Ấn tượng chung

Tính toàn vẹn của tổng thể

Nó trọn vẹn với tất cả các tòa nhà bên ngoài và vườn...

Bối cảnh

Tính toàn vẹn của địa điểm

Tòa nhà vẫn ở nguyên chỗ cũ và xung quanh vẫn như cũ

Trải nghiệm

Tình cảm đầu tiên

Người sử dụng tòa nhà vẫn có trải nghiệm tương tự như cũ

Phong cách

Trông nó có vẻ đúng

Nó mô phỏng diện mạo như cũ

 

 
 

Nhìn nhận các DTLSCMKC theo hướng tiếp cận về tính xác thực sẽ thấy sự đa chiều trong việc định hướng chiến lược bảo tồn, phát huy giá trị di tích và phát triển du lịch. Với mỗi quan điểm khác nhau sẽ có những phương án bảo tồn, phát huy giá trị và phát triển khách du lịch khác nhau. Theo ý kiến cá nhân, bảo tồn, phát huy giá trị các DTLSCMKC nên xem xét trước hết trên khía cạnh bối cảnh, với sự toàn vẹn của địa điểm và cảm xúc. Đó như là một bức tranh sống động, một minh chứng cho các cuộc cách mạng kháng chiến của dân tộc Việt Nam, một dấu ấn trong phong trào yêu nước, một địa điểm để ghi nhớ về lịch sử. Khi bước chân vào đây cũng đồng nghĩa với cuộc hành trình về quá khứ, mang trong đó bao câu chuyện, bao cảm xúc khác nhau.

_______________

1. vi.wikipedia.org

2. Ngô Đức Thịnh - Frank Proschan chủ biên, Folklore, một số thuật ngữ đương đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2005, tr. 295.

3, 4. en.wikipedia.org.

5. william-morris.co.uk.

6. goodreads.com.

7, 8. Peter Horward, Heriatge: Mangement, Interpretation, Identity, Continuum, London - New York, 2003, tr. 206, 207, 208.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 391, tháng 1-2017

Tác giả : LÂM NHÂN

;