Cơ hội và thách thức với phát triển bền vững trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay

     Phát triển bền vững hiện nay được nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận, luận giải khác nhau và cũng được các quốc gia, dân tộc vận dụng khác nhau. Nhưng tựu chung lại, nội dung có tính thống nhất là ở tính vững chắc, ổn định lâu dài, cân đối, đồng bộ giữa các lĩnh vực kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái và an ninh, văn hóa, xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI khái quát: “Phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững… Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - xã hội phải coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu… Phát triển bền vững là cơ sở cho phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và phát triển bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách kinh tế - xã hội” (1).

     Thực hiện phát triển bền vững nói chung và ở nước ta hiện nay nói riêng đều phải giải quyết nhiều mối quan hệ khác nhau, ở đó mối quan hệ giữa cơ hội và thách thức trong hội nhập quốc tế về kinh tế là vấn đề quan trọng, mang tính tổng hợp, liên quan trực tiếp nhất. Bởi lẽ, theo tinh thần Đại hội XII của Đảng, “hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi” (2).

     Hội nhập quốc tế về kinh tế phản ánh tính chủ động của Đảng, Nhà nước ta theo quỹ đạo chung của xu hướng toàn cầu hóa. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi quốc gia, dân tộc vừa có cơ hội, vừa phải đối mặt với những thách thức. Cơ hội trong hội nhập quốc tế về kinh tế là tổng thể những điều kiện, khả năng, tiềm năng cho phép chủ thể tiếp nhận được thế mạnh từ bên ngoài và phát huy được thế mạnh bên trong, khắc phục được những hạn chế, bất lợi, thiếu thốn về nguồn vốn, công nghệ cho phát triển, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay theo hướng phát triển bền vững. Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra con đường cho ta tiếp nhận được những thành tựu của các nước tiên tiến và thực hiện cách mạng hóa lực lượng sản xuất, đưa năng suất lao động lên cao. Tuy nhiên, cơ hội luôn gắn liền với thách thức. Thách thức trong hội nhập kinh tế quốc là sự thua thiệt về lợi ích không ở mặt này thì mặt khác. Sự thua thiệt trong lợi ích kinh tế hoặc về lĩnh vực chính trị, văn hóa, đạo đức. Thậm chí có lợi trước mắt mà thua thiệt lâu dài, làm tổn thất đến phát triển tương lai, phát triển bền vững. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với các tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp” (3).

     Mỗi bước tiến của hội nhập quốc tế về kinh tế luôn có cả cơ hội và cả thách thức. Cơ hội và thách thức đều là các yếu tố bên ngoài, mang tính ngoại nhập có tác dụng thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi, hoặc kìm hãm, gây khó khăn cản trở cho sự vận động bình thường và phát triển của một đối tượng (thường là đối tượng xã hội) nhất định. Do vậy, nó không chỉ có sự khác biệt, bài trừ lẫn nhau mà có thể tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau tùy thuộc vào năng lực chủ động, tự giác của đối tượng có chớp được thời cơ do cơ hội mang lại hay để tuột mất khiến cho cơ hội trở thành thách thức, gây bất lợi cho sự phát triển.

     Cơ hội và thách thức tồn tại một cách tất yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, chúng không được chia đều, lần lượt cho các quốc gia, càng không thể có những cơ hội mang tính chung chung, trừu tượng, mà nó hết sức cụ thể, đa dạng và phong phú. Đặc biệt, cơ hội và thách thức luôn tồn tại đan xen nhau, là hai mặt đối lập không tách rời trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế:

     Thứ nhất, trong quá trình hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng, các quốc gia tùy thuộc vào nhau, ràng buộc lẫn nhau theo “luật chơi chung” để cùng hợp tác và phát triển. Đây là cơ hội tích cực để xây dựng môi trường quốc tế công bằng, bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc; tạo điều kiện thuận lợi để loại bỏ mọi biểu hiện của ý đồ thiết lập mối quan hệ một chiều chứa đựng sự áp đặt, chi phối, thống trị của các siêu cường quốc đối với các quốc gia, dân tộc khác trên thế giới.

     Tuy nhiên, sự “công bằng, bình đẳng” trong quá trình hội nhập toàn cầu hóa kinh tế hiện nay vẫn còn mang tính hình thức. Do có ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý… các nước phát triển luôn nắm quyền khống chế những “luật chơi chung” theo hướng có lợi cho họ. Hiện tượng “cá lớn nuốt cá bé” vẫn còn tồn tại, các nước đang phát triển thường phải gánh chịu những điều bất lợi, thiệt thòi về phía mình trong quá trình hội nhập.

     Thứ hai, trước sự vận động mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, trái đất giống như một mái nhà chung; những vấn đề vốn dĩ trước đây mang tính riêng lẻ của mỗi nước như vấn đề bệnh dịch, dân số, đói nghèo, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội… thì nay đã trở thành những vấn đề chung mang tính toàn cầu. Các quốc gia, dân tộc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đều có cơ hội nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới nhằm dần khắc phục khó khăn, tiếp tục phát triển.

     Mặc dù vậy, trong quá trình “giúp đỡ”, một số nước tư bản phát triển, tập đoàn tư bản xuyên quốc gia đã dùng mọi thủ đoạn vừa thô bạo, vừa tinh vi để can thiệp vào công việc nội bộ, chủ quyền quốc gia, dần làm cho vị trí, chức năng, tính độc lập của “Nhà nước - Dân tộc” của các quốc gia, dân tộc đang phát triển bị lung lay và ảnh hưởng. Chính phủ một số nước không còn độc lập tuyệt đối trong việc hoạch định chính sách vì có nhiều vấn đề vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước như: các luồng di chuyển vốn, công nghệ, thông tin…

     Thứ ba, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự lan tỏa của các nguồn lực kinh tế thì văn hóa cũng có cơ hội để giao thoa, học hỏi thông qua hệ thống thông tin hiện đại. Song, cũng cần nhận thức được một thực tế hiển nhiên rằng, khi mở cửa hội nhập, các quốc gia đang phát triển không chỉ đón nhận những “luồng gió mát” mà còn phải đối mặt với những “luồng gió mang theo sự ô nhiễm”. Nhiều giá trị văn hóa bản địa của các quốc gia này đang bị tấn công, gặm nhấm, đồng hóa bởi văn hóa ngoại lai, lối sống xa hoa, thực dụng, xa rời bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc.

     Thứ tư, trước sức lôi cuốn như vũ bão của xu thế toàn cầu hóa, không một quốc gia nào có thể đứng ngoài dòng chảy của nó dù là nước tiên tiến hay lạc hậu, nước phát triển hay nước đang phát triển. Trong quá trình hội nhập toàn cầu hóa kinh tế, các nước đang phát triển có cơ hội thu hút vốn đầu tư, khoa học công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý vào sản xuất; cũng như vậy, các nước phát triển lại tìm thấy ở các nước đang phát triển địa bàn để khai thác, sản xuất, kinh doanh, nguồn nhân lực dồi dào, nhân công rẻ…

     Thứ năm, với mục tiêu dành lợi nhuận tối đa thông qua các mối liên hệ quốc tế rộng rãi, các nước phát triển đang tìm cách đầu tư vào các nước đang phát triển. Ngược lại, để đưa đất nước tiến nhanh, các nước đang phát triển cũng có nhu cầu thu hút ngày càng nhiều viện trợ từ nước ngoài. Sự gặp gỡ của hai nhu cầu này đem đến những cơ hội to lớn, làm cho dòng chảy về vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển nhằm khuyến khích tư nhân hóa ngày một gia tăng.

     Tuy nhiên, cũng chính thông qua con đường đầu tư, cho vay, viện trợ kinh tế này, các thế lực đế quốc mong muốn thực hiện “diễn biến hòa bình” nhằm thay đổi chế độ, xã hội của các nước khác. Chúng luôn tìm mọi cách để gây sức ép với nhiều quốc gia khác nhau, đặc biệt là với các nước XHCN về những vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo… tạo nên sự mất ổn định chính trị, xã hội ở các nước đó.

     Ngoài ra, quá trình hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ cũng đang khiến con người ta phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề môi trường, đặc biệt với các nước đang phát triển. Bởi lẽ, tài nguyên thiên nhiên của các nước này đang dần bị cạn kiệt, môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng, các nước đang phát triển được xem như một địa bàn thích hợp nhất để sử dụng làm bãi rác thải công nghiệp và công nghệ cho các nước phát triển.

     Thứ sáu, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang tạo ra sự gắn bó hữu cơ, liên kết, ràng buộc lẫn nhau về nhiều mặt giữa các nước trong khu vực và trên thế giới vì lợi ích chung là phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Nhờ không khí ngày càng thân thiện do lợi ích của tất cả các bên trong quá trình liên kết, hợp tác, hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng đang đem lại khả năng thuận lợi cho việc giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển. Mặc dù vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh. Cam kết cùng nhau thực hiện các hoạt động phù hợp với “luật chơi chung” là nguyên tắc căn bản. Song trên thực tế, do có tiềm lực kinh tế áp đảo và có ưu thế về nhiều mặt, các nước phát triển đang nắm ưu thế chủ đạo trong quan hệ phân công quốc tế. Họ luôn tìm cách giành lấy những lợi thế kinh tế về phía mình, đẩy những bất lợi về phía các nước đang phát triển, làm cho không ít quốc gia phải đối mặt với những thách thức nghiệt ngã như: phá sản hàng loạt, thất nghiệp tràn lan, nạn chảy máu chất xám, khoảng cách giàu - nghèo ngày càng rộng, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế…

     Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế luôn tiềm ẩn hai khả năng: thời cơ và thách thức, mặt phải và mặt trái, hợp tác và đấu tranh, vươn lên và tụt hậu, tự chủ và phụ thuộc. Những khả năng đó tác động theo chiều hướng nào và mức độ ảnh hưởng ra sao đối với từng quốc gia, tùy thuộc ở nhân tố chủ quan của quốc gia đó.

     Đối với Việt Nam, nếu chúng ta chùn bước trước thách thức, không tham gia hội nhập sâu rộng thì sẽ bỏ lỡ thời cơ, không thể bứt phá và rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước khác trên thế giới. Ngược lại, nếu ta coi thường thách thức, không thấy hết được sự đa dạng và phức tạp của thách thức thì chúng ta dễ bị rơi vào tình trạng hội nhập một cách tùy tiện, bị động, vấp váp, thua thiệt, thậm chí còn có cả sự đổ vỡ. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là Đảng và Nhà nước ta phải có cái nhìn khách quan, toàn diện về thời cơ và thách thức do toàn cầu hóa mang lại, xây dựng được những chiến lược vĩ mô, những chính sách cụ thể, đúng đắn và phù hợp để có thể tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thành công, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển bền vững.

     Trước hết, là làm chủ các thông tin, đặc biệt thông tin về kinh tế trong nước và quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhờ thông tin mà có thể biết được thế mạnh của nước ta cũng như các nước bạn để xác định quy mô, tính chất, phạm vi quan hệ hợp tác sao cho thích ứng, phù hợp. Nước ta có nhiều thế mạnh về nguồn nhân lực, tài nguyên, môi trường chính trị ổn định… Đây là môi trường lý tưởng, hấp dẫn cho bất cứ nhà đầu tư muốn đặt quan hệ đối tác. Bởi, đầu tư dài, lớn thì không thể có sự hấp dẫn ở các nước bất ổn về chính trị. Vì vậy, để có thể phát huy thế mạnh trong nước cũng phải phát triển hệ thống thông tin, tuyên truyền, quảng bá đối với các nước khác trên thế giới để các chủ đầu tư có thể tìm thấy lợi thế ở nước ta và mở rộng quan hệ hợp tác lâu dài.

     Ở phương diện vận dụng mối quan hệ giữa cơ hội và thách thức trong hội nhập quốc tế về kinh tế phải kết hợp giữa nguyên tắc phát triển bền vững với sự linh hoạt ở mỗi bước đi, mỗi lĩnh vực. Nhà nước phải tận dụng, phát huy được cơ hội, đồng thời cũng phải dự báo, kiểm soát, làm chủ được cơ hội thì mới thu hẹp được thách thức ở lĩnh vực kinh tế. Tương quan giữa vay vốn, tận dụng công nghệ hiện đại từ nước ngoài với năng lực tạo dựng, tích lũy vốn trong nước cũng phải phù hợp thì mới có phát triển bền vững. Ở phương diện này đặt ra vấn đề sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ nước ngoài phù hợp với khả năng kiểm soát của Nhà nước.

     Trong hội nhập quốc tế về kinh tế có nhiều cơ hội hơn cho tăng trưởng, phát triển kinh tế, nhưng mặt trái của nó không chỉ bao hàm thách thức về kinh tế, mà quan trọng hơn là gia tăng thách thức về các lĩnh vực khác của xã hội như: văn hóa, đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục. Bảo đảm sự tương quan giữa lợi ích kinh tế với giữ vững thể chế chính trị, bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc một cách hài hòa trong sự kiểm soát của Nhà nước thì mới hạn chế được thách thức và mới có phát triển bền vững. Những mục đích, động cơ tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá dễ phải trả một giá đắt ở các lĩnh vực văn hóa, xã hội, đạo đức lối sống và làm gia tăng thách thức về kinh tế, khó có phát triển bền vững.

     Vận dụng mối quan hệ giữa cơ hội và thách thức trong hội nhập quốc tế về kinh tế ở nước ta hiện nay để có phát triển bền vững còn tập trung vào giải quyết tương quan giữa trước mắt và lâu dài một cách phù hợp. Hiện nay, có nhiều cơ hội tận dụng vốn và công nghệ để khai thác nguồn tài nguyên trong nước. Tận dụng cơ hội ấy một cách tùy tiện dẫn đến nguy cơ cạn kiệt tài nguyên môi trường trong tương lai và cũng khó có thể phát triển bền vững.

     Bên cạnh đó, còn phải hướng đến giải quyết vấn đề tương quan giữa hiện đại và truyền thống ở lĩnh vực công nghệ hiện nay. Giải quyết vấn đề này phải trên cơ sở của một trình độ hoạch định chính sách kết hợp được giữa tính tuần tự và nhảy vọt trong tận dụng cơ hội tiếp nhận công nghệ nước ngoài phù hợp với trình độ đào tạo nguồn nhân lực tương ứng thì mới có hiệu quả, thu hẹp được thách thức để có phát triển lâu dài, bền vững.

     Mối quan hệ giữa cơ hội và thách thức trong hội nhập quốc tế về kinh tế với phát triển bền vững là khách quan, đồng thời cũng xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Làm chủ mối quan hệ này thực chất là tác động làm cho sự chuyển hóa giữa hai mặt cơ hội và thách thức có tính uyển chuyển, linh hoạt, hiệu quả. Mỗi bước tiến, mỗi giai đoạn là một chuỗi quá trình chuyển hóa biện chứng để tính hiệu quả của cơ hội tăng lên, những thách thức được thu hẹp để có thể phát triển bền vững.

_____________

     1, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.98-99.

     2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.155.

 

Tác giả: Đinh Nguyễn An

Nguồn: Tạp chí VHNT số 420, tháng 6-2019

 

;