Chuyển đổi số thư viện đại học với vấn đề quyền tác giả

Ngày 11-2-2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 206/QĐ-TTg về Chương trình chuyển đổi số ngành Thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Mục tiêu chung của các chương trình là “Ứng dụng mạnh mẽ, toàn diện công nghệ thông tin, nhất là công nghệ số nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các thư viện và hình thành mạng lưới thư viện hiện đại; bảo đảm cung ứng dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người sử dụng; thu hút đông đảo người dân quan tâm, sử dụng dịch vụ thư viện, góp phần nâng cao dân trí, xây dựng xã hội học tập”.

Hội thảo khoa học Thư viện trường đại học trong bối cảnh chuyển đổi số - Ảnh: Thư viện Đại học Hà Nội

Trên tinh thần quyết tâm thực hiện, các thư viện nói chung và thư viện đại học nói riêng đã xác định chuyển đổi số là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp thiết phải thực hiện nhằm cải thiện quy trình, giảm thiểu thời gian, công sức làm việc cho nhân viên thư viện và đặc biệt là mang lại sự tiện lợi và nhiều dịch vụ tiện ích cho người dùng tin trong việc tìm kiếm và khai thác tài nguyên thông tin. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chuyển đổi số, các thư viện đại học đã gặp không ít khó khăn, thách thức, trong đó vấn đề quyền tác giả là một rào cản lớn mà các thư viện đang phải đối mặt.

1. Chuyển đổi số thư viện đại học

Mặc dù thuật ngữ chuyển đổi số đã xuất hiện phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, nhưng chưa có một định nghĩa chung nào chính xác được đưa ra. Mỗi cách tiếp cận lại đưa ra các định nghĩa khác nhau về chuyển đổi số như:

Theo trang Tech Republic - Tạp chí trực tuyến, cộng đồng xã hội dành cho các chuyên gia công nghệ thông tin đưa ra, chuyển đổi số là cách sử dụng công nghệ để thực hiện lại quy trình sao cho hiệu quả hơn (1).

Theo Microsoft, chuyển đổi số là việc tư duy lại cách thức các tổ chức tập hợp mọi người, dữ liệu và quy trình để tạo những giá trị mới (2).

Theo GS Hồ Tú Bảo, chuyển đổi số là quá trình con người thay đổi phương thức sản xuất, thay đổi cách sống và cách làm việc với các công nghệ số (3).

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, chuyển đổi số là việc sử dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với nhau (4). Đây cũng là định nghĩa được sử dụng phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay.

Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu chuyển đổi số thư viện đại học là việc áp dụng công nghệ thông tin, các nền tảng số để thay đổi phương thức thực hiện công việc trong thư viện đại học. Những công việc chính bao gồm: thu thập, xử lý, tổ chức và cung cấp thông tin. Phương thức thực hiện các công việc này được triển khai dựa trên nền tảng công nghệ số theo hướng tự động hóa, chuẩn hóa, liên kết, hợp tác, chia sẻ.

Tuy nhiên, nhiều người bị nhầm lẫn và cho rằng số hóa, công nghệ số chính là chuyển đổi số. Để phân biệt các thuật ngữ này, chúng ta cần làm rõ nội hàm khái niệm của chúng. Cụ thể:

Số hóa là quá trình hiện đại hóa, chuyển đổi các hệ thống thường sang hệ thống kỹ thuật số (chẳng hạn như chuyển từ tài liệu dạng giấy sang các file mềm trên máy tính, số hóa truyền hình chuyển từ phát sóng analog sang phát sóng kỹ thuật số...).

Công nghệ số là việc sử dụng các dữ liệu số để thực hiện công việc nhanh và tốt hơn. Công nghệ số là tối ưu hóa quy trình đã có, theo mô hình hoạt động đã có, để cung cấp dịch vụ đã có.

Chuyển đổi số là sử dụng công nghệ số hay ứng dụng công nghệ số trên cơ sở các dữ liệu số hoặc dữ liệu đã được số hóa để thay đổi mô hình nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh nhằm tạo ra nhiều cơ hội và giá trị mới, cải thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động, tính cạnh tranh của tổ chức/ cơ quan/ doanh nghiệp. Chuyển đổi số không phải là sự nâng cấp liên tục của công nghệ thông tin hay là số hóa quy trình, dữ liệu và thông tin. Chuyển đổi số là khai thác các dữ liệu có được từ quá trình số hóa, rồi áp dụng các công nghệ để phân tích, biến đổi các dữ liệu đó và tạo ra các giá trị mới hơn. Hay hiểu một cách rõ ràng hơn, chuyển đổi số là thay đổi quy trình mới, thay đổi mô hình hoạt động mới, để cung cấp dịch vụ mới hoặc cung cấp dịch vụ đã có theo cách mới. Như vậy, số hóa hay công nghệ số được coi là một phần của chuyển đổi số.

2. Quyền tác giả

Quyền tác giả hay còn gọi là bản quyền (Copyright) là một trong 3 đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ cùng với quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu nhằm bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm của họ, ngăn chặn hành vi sao chép, hành vi mạo danh, phổ biến, chuyển nhượng bất hợp pháp tác phẩm.

Ở Việt Nam, bắt đầu từ Hiến pháp 1980, quyền tác giả mới được công nhận là một trong những quyền cơ bản của công dân. Vào năm 1986, Nghị quyết số 142/HĐBT ban hành ngày 14-11-1986 của Hội đồng Bộ trưởng có quy định 8 điều liên quan đến bảo hộ quyền tác giả như quy định về tác giả, về các loại tác phẩm được bảo hộ, các quyền lợi tinh thần và vật chất của tác giả, thời hạn bảo hộ quyền tác giả… Đến Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 1995, vấn đề bảo hộ quyền tác giả được chính thức ghi nhận. Sau đó, quyền tác giả được hoàn thiện dần với các nội dung ngày càng đầy đủ, cụ thể hơn trong các văn bản pháp luật về quyền tác giả như Luật Sở hữu trí tuệ, các nghị định, thông tư,… do các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ban hành. Từ 1997 trở đi, Việt Nam đã ký kết một số điều ước quốc tế liên quan đến quyền tác giả. Các điều ước quốc tế này đã tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, an toàn trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Theo thống kê, Cục Bản quyền tác giả đã chủ trì và phối hợp với các tổ chức, cơ quan tổ chức nghiên cứu, xây dựng và trình các cấp có thẩm quyền ban hành trên 30 loại văn bản quy phạm pháp luật, với tổng số trên 620 điều luật trong đó có 226 điều luật hiện tại đang có hiệu lực thi hành trên phạm vi cả nước (5) Những điều luật này đã được ghi nhận tại các văn bản pháp luật từ các quy định tại Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Hành chính, Bộ luật Hình sự, Luật Sở hữu trí tuệ, các luật chuyên ngành báo chí, xuất bản, điện ảnh, di sản, quảng cáo, hải quan cho đến các chỉ thị, nghị định và các thông tư. Bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật, Việt Nam còn tham gia ký kết 8 điều ước quốc tế song phương và đa phương về quyền tác giả, quyền liên quan, trong đó có:

5 công ước và hiệp ước quốc tế: Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học - nghệ thuật (2004), Công ước Genever về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm (2005), Công ước Brussel liên quan đến việc phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh (2006), Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng (2007), Hiệp định TRIPs về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (2007) đã lần lượt có hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, Công ước Berne có hiệu lực trước tiên vào ngày 26-4-2004. Hiệp định TRIPs có hiệu lực ngày 11-1-2007 cùng thời điểm Việt Nam là thành viên của WTO.

3 điều ước quốc tế song phương gồm Hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả, Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ và Hiệp định bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với Liên bang Thụy Sĩ đã lần lượt có hiệu lực tại các quốc gia ký kết. Ngoài ra, tại các Hiệp định đa phương và song phương về kinh tế, thương mại, đầu tư, dịch vụ v.v… mà Việt Nam đã ký kết, tham gia cũng bao gồm các cam kết về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có quyền tác giả, quyền liên quan như Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản hoặc Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương mà Việt Nam đang tham gia đàm phán cùng 8 quốc gia khác.

Các điều ước, hiệp ước quốc tế và hiệp định nêu trên có khoảng trên 200 điều luật, là những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên. Công dân và pháp nhân các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ khi khai thác các quyền tác giả, quyền liên quan của công dân và pháp nhân Việt Nam, ngược lại công dân và pháp nhân Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ pháp lý khi khai thác, sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan của công dân và pháp nhân của các quốc gia thành viên liên quan.

3. Thực thi quyền tác giả trong chuyển đổi số thư viện đại học

Chuyển đổi số là một nhiệm vụ cấp thiết của các thư viện đại học nhằm cải thiện quy trình, giảm thiểu thời gian, công sức làm việc cho nhân viên thư viện và đặc biệt là mang lại sự tiện lợi và nhiều dịch vụ tiện ích cho người dùng tin trong việc tìm kiếm và khai thác tài nguyên thông tin. Hưởng ứng Chương trình chuyển đổi số quốc gia, ngày 11-2-2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 206/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số ngành Thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu đặt ra: “Ứng dụng mạnh mẽ, toàn diện công nghệ thông tin, nhất là công nghệ số nhằm nâng cao năng lực hoạt động của các thư viện và hình thành mạng lưới thư viện hiện đại; đảm bảo cung ứng dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người sử dụng; thu hút đông đảo người dân quan tâm, sử dụng dịch vụ thư viện, góp phần nâng cao dân trí, xây dựng xã hội học tập” (6). Trong đó, mục tiêu đến năm 2025: 100% thư viện có vai trò quan trọng, thư viện đại học và thư viện chuyên ngành ở Trung ương có trang thông tin điện tử cung cấp dịch vụ trực tuyến, tích hợp với thành phần dữ liệu mở của Hệ tri thức Việt số hóa; 80% thư viện chuyên ngành và thư viện đại học khác, 60% thư viện cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các cơ sở giáo dục khác có trang thông tin điện tử có khả năng cung cấp dịch vụ trực tuyến trên nhiều phương tiện truy cập (trừ các dịch vụ thuộc phạm vi bí mật Nhà nước và dịch vụ đọc hạn chế).

Việc Thủ tướng phê duyệt chương trình đã tạo động lực cho các thư viện đại học quyết tâm thực hiện chuyển đổi số, bắt nhịp với xu thế phát triển chung của thế giới cũng như tạo cơ hội để thư viện tiến gần hơn với người dùng tin. Nhưng chuyển đổi số là một quá trình lâu dài và để thực hiện nó không phải là điều dễ dàng. Các thư viện đại học đang ở giai đoạn tiền đề, đặt những viên gạch đầu tiên trong công cuộc chuyển đổi số. Do vậy, một trong những mục tiêu trọng tâm mà hiện nay các thư viện đại học hướng tới là xây dựng và phát triển nguồn tài nguyên thông tin số phong phú về số lượng, đa dạng về nội dung. Để làm được điều đó, số hóa tài liệu là nhiệm vụ không thể bỏ qua. Tuy nhiên, khi tiến hành số hóa tài liệu, vấn đề bản quyền đã làm “đau đầu” không chỉ tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, cơ quan quản lý nhà nước mà cả các thư viện đại học - những đơn vị muốn khai thác, sử dụng tác phẩm để số hóa một cách hợp pháp.

Mặc dù hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến quyền tác giả đã được ban hành khá chi tiết, đầy đủ và phù hợp với tình hình mới, nhưng thực tế tỷ lệ vi phạm quyền tác giả ở Việt Nam vẫn khá cao. Là cơ quan có chức năng văn hóa, giáo dục, thông tin, giải trí, nơi cung cấp thông tin phục vụ cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học trong trường đại học, thư viện phải có trách nhiệm bảo vệ và thực thi quyền tác giả khi tiến hành chuyển đổi số.

Thực tế hiện nay, các thư viện đại học đang phát triển nguồn tài nguyên thông tin số theo các phương thức sau: mua từ các nhà xuất bản, các đơn vị cung cấp tài nguyên thông tin số; khai thác các nguồn tài nguyên thông tin số miễn phí trên Internet; liên kết, hợp tác với các thư viện khác, sử dụng tài nguyên thông tin số dùng chung; trao đổi, biếu tặng hoặc tiếp nhận lưu chiểu (các nguồn tài nguyên thông tin nội sinh theo quy định của Nhà trường); tự tiến hành số hóa nguồn tài nguyên thông tin dạng giấy có trong thư viện bằng các thiết bị quét chuyên dụng.

Trong đó, biếu tặng hoặc tiếp nhận lưu chiểu và tự tiến hành số hóa nguồn tài nguyên thông tin dạng giấy có trong thư viện bằng các thiết bị quét chuyên dụng là hai phương thức mà các thư viện đại học rất dễ vướng phải các vấn đề liên quan đến quyền tác giả. Bởi nếu không xác định được trạng thái quyền tác giả của tác phẩm và phương thức sử dụng tác phẩm thì thư viện có khả năng vi phạm quyền tác giả rất cao khi đưa ra phục vụ người dùng tin. Chính vì vậy, trước khi tiến hành số hóa và phổ biến rộng rãi đến người dùng, các thư viện đại học nên lựa chọn kỹ lưỡng và xác định cẩn thận các loại tài liệu dự kiến thực hiện, xem chúng có phải là đối tượng nằm ngoài quyền tác giả và quyền liên quan theo quy định của pháp luật hay không.

Tài liệu nằm ngoài quyền tác giả (Out-of-copyright) bao gồm các loại tài liệu sau:

Tài liệu thuộc quyền sở hữu của Nhà nước như: văn bản pháp quy, số liệu thống kê, tài liệu thuộc lĩnh vực tư pháp. Chương I, mục 1, điều 15 của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam có quy định: “Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả: Tin tức thời sự thuần túy đưa tin; Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó; Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu”.

Tài liệu đã thuộc về công chúng (Public domain) là tài liệu có bản quyền, nhưng đã hết thời gian bảo hộ. Luật Sở hữu trí tuệ quy định rõ thời hạn bảo hộ đối với từng đối tượng như: Thời hạn bảo hộ quyền công bố tác phẩm và các quyền tài sản đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan là năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình, bản ghi âm, ghi hình được công bố hoặc định hình nếu chưa công bố, chương trình phát sóng được thực hiện...

Khi tác giả không tuân thủ nghiêm ngặt các điều khoản của Luật bản quyền. Chẳng hạn như tác phẩm thuộc sự bảo hộ của Luật bản quyền, nhưng tác giả đồng ý chuyển giao tác phẩm vào phạm vi công cộng và cho mọi người sử dụng tác phẩm với bất kỳ mục đích nào một cách vô điều kiện.

Đối với các tài liệu nằm ngoài quyền tác giả, thư viện có thể tiến hành số hóa bất cứ khi nào có thể mà không cần đặt ra vấn đề xin phép sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên, trong suốt quá trình số hóa, quyền nhân thân của tác giả đối với tác phẩm cần được tôn trọng, quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn và không thể chuyển nhượng, do vậy trên các dữ liệu số hóa vẫn phải đảm bảo quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên trên tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm… của tác giả tác phẩm gốc.

Tài liệu được bảo hộ theo quyền tác giả bao gồm các loại tài liệu sau:

Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả là tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và các tác phẩm phái sinh của các loại hình tác phẩm này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.

Như vậy, theo quy định trên thì tất cả giáo trình, đề cương, bài giảng, sách tham khảo, sách chuyên khảo, các luận văn, luận án, các bài viết trên tạp chí và các tài liệu khác có trong thư viện đại học đều là tác phẩm được bảo hộ theo quyền tác giả. Thư viện chỉ là chủ sở hữu đối với các tài liệu cụ thể được lưu trữ trong thư viện, chỉ được phép sử dụng mà không được phép sao chép và phân phối khi chưa xin phép. Tác giả hay các tổ chức, cá nhân được tác giả chuyển nhượng quyền mới là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tài liệu đó. Do đó, khi tiến hành số hóa, về nguyên tắc, thư viện cần xin phép và thực hiện nghĩa vụ trả nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả theo thỏa thuận. Việc xin cấp phép sử dụng quyền tác giả và quyền liên quan hiện nay có thể thực hiện đơn giản và dễ dàng. Thư viện đại học dựa theo các thông tin quản lý quyền có trên tác phẩm liên hệ trực tiếp với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả để được cấp phép hoặc thông qua các tổ chức quản lý tập thể nếu tác giả, chủ sở hữu quyền đã ủy thác quyền cho các tổ chức này quản lý (điều 56 Luật Sở hữu trí tuệ). Tại Việt Nam, hiện đang có bốn tổ chức quản lý tập thể, gồm: Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam - VCPMC, Trung tâm Quyền tác giả văn học Việt Nam - VLCC, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam - RIAV, Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam - VIETRRO. Tùy theo tài liệu thuộc đối tượng nào thì thư viện sẽ xin phép tổ chức quản lý tương ứng.

Tuy nhiên, thực tế theo quy định về giới hạn và ngoại lệ trong cơ chế bảo hộ quyền tác giả, công chúng được tự do sử dụng trong một số trường hợp nhất định. Nếu hành vi số hóa tài liệu thuộc một trong các trường hợp mà Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định tại điều 25, điều 32 thì người tiến hành số hóa không có nghĩa vụ xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao, chẳng hạn như: Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;… Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;... Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy; Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó (7).

Các ngoại lệ này chỉ áp dụng đối với các tác phẩm đã được công bố, không thể áp dụng cho các tác phẩm chưa công bố và phải đảm bảo tuân thủ quy tắc “phép thử ba bước” (thuộc các trường hợp ngoại lệ đặc biệt mà được quy định bởi pháp luật, không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến quyền lợi hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả).

Như vậy, khi tiến hành số hóa tài liệu, các thư viện đại học cần lưu ý một số điểm sau:

Đối với các tài liệu không xác định rõ thời hạn bảo hộ bản quyền hay không xác định được tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, thư viện cần cân nhắc những rủi ro về kinh tế và pháp lý có thể phát sinh để quyết định có tiến hành số hóa hay không. Ngoài ra, cũng có trường hợp có thể tiến hành số hóa tài liệu nhưng phải thỏa mãn một số điều kiện mà chủ sở hữu quyền yêu cầu.

Đối với tài liệu mà thư viện được tặng bởi người có quyền tác giả, thì thư viện có thể tiến hành số hóa, tuy nhiên cần phải yêu cầu người tặng cung cấp cho mình quyền được số hóa tài liệu (có thể bằng một bản chuyển nhượng có ghi “quyền sử dụng tác phẩm với bất kỳ mục đích chung của thư viện, dưới bất kỳ phương tiện nào”).

Đối với các tài liệu khác, thư viện có thể dùng phương thức “sử dụng hợp lý” để cung cấp cho người sử dụng dịch vụ đọc bản số hóa trong hệ thống mạng nội bộ. Mặc dù pháp luật về quyền tác giả của Việt Nam chưa trao cho thư viện đặc quyền này, nhưng phương thức sử dụng này sẽ không dẫn đến tranh chấp quyền tác giả do dịch vụ này chỉ cho phép người sử dụng đọc các tác phẩm có bản quyền trên các máy trạm của thư viện, không cho phép tải xuống và in ấn.

Bản thân việc số hóa tài liệu không phải là hành vi sử dụng quyền tác giả và quyền liên quan, nhưng mục đích của việc số hóa lại có thể là hành vi sử dụng quyền theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy, thư viện đại học cũng cần xác định rõ việc số hóa tài liệu chỉ nhằm một mục đích duy nhất là phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học. Tuyệt đối không sử dụng cho bất kỳ mục đích thương mại nào làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người nắm giữ bản quyền. Tuyệt đối không được cung cấp và phục vụ sản phẩm, dịch vụ số hóa loại tài liệu được bảo hộ theo Luật bản quyền trên mạng internet.

Kết luận    

Chuyển đổi số là cơ hội lớn để các thư viện đại học có thể tiếp cận gần hơn đến người dùng, nhưng đồng thời cũng mang đến không ít những thách thức. Do vậy, muốn thực hiện thành công và hiệu quả chuyển đổi số, các thư viện cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo các nguồn lực bao gồm cả nhân lực, vật lực và tài lực đảm bảo tính đồng bộ, toàn diện và chuẩn hóa. Đặc biệt, các thư viện đại học cũng cần xem xét cẩn thận các vấn đề liên quan đến pháp lý nói chung và quyền tác giả nói riêng để đảm bảo các hoạt động chuyển đổi số được tiến hành nhanh chóng hiệu quả và vẫn thực thi đúng các quy định của pháp luật.

_______________________

1, 2. Chuyển đổi số là gì? Ý nghĩa của chuyển đổi số (Digital Transformation), fsivietnam.com.vn, 8-11-2022.

3. Hồ Tú Bảo, Chuyển đổi số và các khái niệm liên quan, Nxb Thông tin và Truyền thông, số 1, 2020, tr.30-32.

4. Bộ Thông tin và Truyền thông, Cẩm nang chuyển đổi số, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2021.

5. cov.gov.vn.

6. Chính phủ, Quyết định số 206/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, 2021.

7. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam số 50/2005/QH11 ban hành ngày 29-11-2005.

Tài liệu tham khảo

1. Bùi Loan Thùy, Bùi Thu Hằng, Thực hiện quyền sở hữu trí tuệ và quyền tác giả trong hoạt động thông tin - thư viện, Tạp chí Thư viện Việt Nam, số 1, 2011, tr.16-23.

2. Cục Bản quyền tác giả, Các quy định pháp luật Việt Nam và quốc tế về quyền tác giả và quyền liên quan, 2010.

3. Donna L. Ferullo, Major Copyright Issues in Academic Libraries (Các vấn đề chính về bản quyền trong thư viện đại học), Journal of Library Administration, số 40, 2004, tr.23-40.

NGUYỄN THANH THỦY - NGUYỄN THỊ HÒA

Nguồn: Tạp chí VHNT số 521, tháng 1-2023

;