Chia sẻ tài nguyên thông tin và dịch vụ thư viện trong khuôn khổ pháp luật về quyền tác giả

Hợp tác, chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin và dịch vụ giữa các thư viện, đặc biệt là thư viện đại học góp phần đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo và hỗ trợ người sử dụng tiếp cận đến nhiều nguồn tài nguyên thông tin khác nhau mà bản thân một thư viện không thể đáp ứng. Bài viết trình bày hoạt động chia sẻ tài nguyên thông tin và dịch vụ thư viện (DVTV) trong các thư viện đại học dựa trên những quy định về quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam; đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện.

Chia sẻ tài nguyên thông tin và DVTV là hoạt động có mối liên hệ hữu cơ đối với quyền tác giả (QTG). Việc chia sẻ này sẽ làm giảm nguồn kinh phí bổ sung; tăng cường khả năng nghiên cứu khoa học và đào tạo, tạo động lực cho việc đổi mới, sáng tạo, chuẩn hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ; tăng cường sự hợp tác giữa các tổ chức với tổ chức, cá nhân với cá nhân… Đây là hoạt động không mới trên thế giới, nhưng chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của các thư viện trong nước. Mặt khác, việc chia sẻ trên không thể diễn ra tùy theo nhu cầu và ý chí của các chủ thể có liên quan mà phải được đặt trong sự tương tác với những quy định liên quan đến QTG nhằm bảo đảm cho các quy định về quyền nhân thân, quyền tài sản của tác giả hoặc chủ sở hữu được thực thi trong sự cân bằng về lợi ích của xã hội, trong đó có đối tượng là thư viện và người sử dụng (NSD).

Chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin và DVTV truyền thống với vấn đề QTG

Chia sẻ nguồn tài liệu bản in

Hiện nay, việc thư viện tiến hành chia sẻ tài liệu bản in được xem là không vi phạm quyền phân phối vì sau khi được sở hữu hợp pháp đối với tài liệu bản in (thông qua việc mua, cập nhật tài liệu, tặng cho, trao đổi), thư viện được quyền cho NSD mượn về nhà, đọc tại chỗ, thậm chí là bán lại (thanh lý sách) đối với tác phẩm gốc mà không cần phải có sự đồng ý hoặc cho phép của tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tài sản của tác phẩm. Tuy nhiên, trên cơ sở tuân thủ pháp luật về QTG, thư viện cần có chính sách nhằm đảm bảo thực thi bảo hộ QTG nghiêm túc, phù hợp với pháp luật trước khi tiến hành chia sẻ, với các tiêu chí sau đây:

Đối với hoạt động mượn liên thư viện, thư viện cần chuẩn mực hóa quy tắc và quy trình chia sẻ tài liệu; bao gồm yêu cầu tài liệu, luân chuyển tài liệu, thời gian luân chuyển, bảng phí dịch vụ và đặc biệt là việc khuyến cáo NSD tuân thủ và chịu trách nhiệm khi xâm phạm QTG; hoạt động này cần được thực hiện trên cơ sở cá nhân NSD yêu cầu phải tự ý thức tuân thủ pháp luật về sở hữu trí tuệ cũng như sự kiểm tra, giám sát của thư viện thành viên.

Đối với tài liệu in đã được xuất bản, công bố rộng rãi, thư viện cần mua từ các nhà xuất bản, các đơn vị kinh doanh xuất bản phẩm có uy tín, có thương hiệu. Tài liệu phải có các biện pháp chống nạn sao chép, in lậu, nhái bằng cách có tem chống hàng giả, tuyệt đối không mua sách trôi nổi trên thị trường, sách không thể kiểm chứng được nguồn gốc.

Đối với tài liệu nội sinh được nộp lưu chiểu, thư viện cần căn cứ vào quy định pháp luật, văn bản hướng dẫn về sở hữu trí tuệ để tiến hành thu nhận đối với dạng tài liệu này. Tùy theo trường hợp thực tế, thư viện đưa ra một số văn bản quy định đối với tác giả, chủ sở hữu về việc lưu trữ, chính sách khai thác khi tiến hành nhận lưu chiểu.

Đối với tài liệu ngoại văn, thư viện cần chọn đối tác có uy tín, được cơ quan quản lý nhà nước cấp phép hoạt động để bổ sung, tránh trường hợp mua phải tài liệu hoặc bản sao kém chất lượng.

Đối với tài liệu thuộc diện trao đổi, biếu, tặng, thư viện cần phải lựa chọn kỹ càng về mặt nội dung, tránh nhận những tài liệu có nội dung chống phá Nhà nước, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, cần phải đóng dấu tặng hoặc dán ghi chú tên người tặng vào trang bìa hoặc trang tên sách để thể hiện thái độ tôn trọng quyền nhân thân, quyền tài sản (nếu có) của tác giả.

Cung ứng dịch vụ cung cấp bản sao tài liệu

Theo Nghị định 22/2018/NĐ-CP, quyền sao chép là quyền của chủ sở hữu độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao của tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử (1). Theo đó, bản sao tác phẩm là bản sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp một phần hoặc toàn bộ tác phẩm, bản sao chụp tác phẩm cũng là bản sao tác phẩm. Về nguyên tắc, chủ thể khi thực hiện quyền này phải được sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu. Tuy nhiên, pháp luật đưa ra ngoại lệ đối với trường hợp “tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân”, thư viện giúp NSD sao chép tài liệu dưới những hình thức như sao chụp từ máy photo, điện thoại thông minh, máy scan, sao in từ máy tính, cơ sở dữ liệu (CSDL) dựa trên cơ sở tuân thủ những quy định pháp luật về vấn đề sao chép. Khi tiến hành xây dựng chính sách về hoạt động sao chép, cung cấp bản sao, nhân bản tài liệu thư viện cần chú ý những yêu cầu sau (2):

Tùy vào tình hình thực tế, thư viện có thể áp dụng các phương thức khác nhau để tiến hành dịch vụ sao chép: NSD tự sao chụp tài liệu thông qua máy photo tự động (P-counter) đặt ở các phòng đọc thông qua tài khoản cá nhân được thư viện cấp; nhờ chuyên viên thư viện sao chép hộ rồi trả phí mực, giấy; ký hợp đồng với đơn vị kinh doanh hoạt động in ấn, sao chụp nhằm cung cấp dịch vụ sao chép cho NSD. Ở khu vực sao chép hoặc phòng đọc, thư viện cần cung cấp các thông báo về QTG để NSD có thể đọc, tham khảo tránh trường hợp vi phạm.

Yêu cầu NSD đăng ký dịch vụ sao chép bằng cách nhận tờ phiếu đăng ký từ chuyên viên thư viện, yêu cầu trên phiếu đăng ký phải thể hiện rõ thông tin về nhân thân kèm theo mục cam kết và chữ ký xác nhận của NSD.

Kiểm tra yêu cầu đăng ký sao chép của NSD, phải đảm bảo các yêu cầu: thông tin khai báo; tài liệu có được sao chép không (tài liệu hạn chế, tài liệu cấm trước 1975), tỷ lệ sao chép hợp lý (15%, 20%, 100%), một số điều kiện khác phù hợp với quy định của thư viện, pháp luật về QTG.

Khi giao bản sao tài liệu cho NSD, thư viện cần kiểm tra đối chiếu với thông tin ban đầu, yêu cầu xuất trình giấy xác nhận hoặc giấy tờ khác để chứng minh họ là người hợp pháp để sử dụng bản sao tài liệu. Bản sao tài liệu phải có dấu của thư viện để đảm bảo rằng tài liệu được sao chép nhằm mục đích phi thương mại, có xuất xứ, nguồn gốc rõ ràng.

Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động sao chép, phải có biên bản ghi nhận về số lượng NSD, số trang, mục đích, loại tài liệu, phí cho thuê giấy mực và khấu hao tài sản định kỳ theo ngày.

Thư viện cần có cơ chế cấm sử dụng tài liệu photo trái phép khi đến sử dụng thư viện. Đồng thời khuyến khích NSD dùng tài liệu có bản quyền, chống lại các hành vi sao chép bất hợp pháp. Thư viện cần kết hợp với khoa, phòng ban, giảng viên cung cấp thông tin về tài liệu môn học trước khi học kỳ mới bắt đầu. Chủ động phối hợp với nhà xuất bản, đơn vị kinh doanh xuất bản phẩm và hiệp hội quản lý tập thể QTG trong việc mua tài liệu có bản quyền và sao chép hợp pháp.

Thư viện phải tăng cường kiểm tra giám sát và kiên quyết loại bỏ tài liệu sao chép bất hợp pháp, đồng thời tăng cường trao đổi và sử dụng tài liệu cũ để giảm chi phí và hạn chế việc sao chép bất hợp pháp bằng cách tạo một thư mục trên trang web hoặc fanpage... dành riêng cho việc trao đổi.

Cung ứng dịch vụ dịch tài liệu

Trong hoạt động thông tin - thư viện, dịch thuật bao gồm dịch lược, tóm tắt, chú giải, tổng quan, tổng luận các bài nghiên cứu chuyên khảo, tạp chí có giá trị để cung cấp cho NSD. Do đó, khi xây dựng chính sách về dịch tài liệu dưới bất cứ mục đích nào thư viện cần phải lưu ý đến vấn đề thực thi bảo hộ QTG, cụ thể như sau (3): khi dịch thuật một tác phẩm nào đó thư viện phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế về QTG như Công ước Berne; cần xin phép tác giả, chủ sở hữu khi tiến hành dịch các tác phẩm để phục vụ cho mục đích đào tạo, nghiên cứu, học tập, đồng thời cần yêu cầu tác giả, chủ sở hữu QTG xác nhận bằng văn bản hoặc qua thư điện tử về việc đồng ý cho phép thư viện tiến hành hoạt động dịch thuật; tuyệt đối không nhận dịch bất cứ tài liệu nào khi chưa được phép của tác giả, chủ sở hữu QTG hoặc NSD không chứng minh được mình là người hợp pháp đối với tác phẩm cần dịch; thư viện cần kiểm tra nội dung của tài liệu trước khi tiến hành dịch, tránh trường hợp nội dung dịch vi phạm quy định pháp luật về QTG khi tiến hành dịch tác phẩm, thư viện phải đảm bảo các quyền nhân thân của tác giả, chủ sở hữu QTG như thông tin về tác giả, nhan đề, nhà xuất bản, năm xuất bản, các yếu tố vật lý như số trang… Cần đảm bảo sự toàn vẹn của tác phẩm gốc, tác phẩm được dịch ra phải giữ nguyên ý tưởng của tác giả, không có sự chênh lệch quá nhiều về mặt nội dung.

Như vậy, thư viện cần hợp tác trong lĩnh vực chia sẻ dịch vụ dịch thuật có thể tiến hành khi việc dịch thuật được sự cho phép (thông qua đàm phán, hợp đồng); thông qua việc từ bỏ quyền tài sản, quyền sao chép tác phẩm (copy-left) hoặc các tác phẩm là tác phẩm gốc từ nguồn nội sinh của cơ sở đào tạo mà trong đó thư viện có quyền dịch thuật để sử dụng cho hoạt động chia sẻ.

Cung ứng dịch vụ chống đạo văn

Thư viện trước khi cung ứng dịch vụ chống đạo văn cho NSD hoặc tiến hành chia sẻ hợp tác với các đơn vị khác cần chú trọng đến vấn đề QTG khi xây dựng chính sách với các tiêu chí sau đây: cần đưa ra quy định cụ thể trong việc chống đạo văn dựa trên quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ đồng thời hướng dẫn các phương pháp trích dẫn cụ thể; cần xây dựng chương trình tập huấn về cách thức trích dẫn trong nghiên cứu khoa học tại thư viện cho NSD bao gồm giảng viên, cán bộ, học viên và sinh viên; nâng cao kiến thức về trích dẫn trong nghiên cứu khoa học cho đội ngũ chuyên viên thư viện, từ đó nâng cao khả năng kiểm tra, rà soát, đối chiếu tài liệu có hiện tượng gian lận; kiểm tra, đánh giá định kỳ hoặc ngẫu nhiên đối với tài liệu nội sinh của trường, đưa ra những câu chuyện về đạo văn lên bản tin, trang web, fanpage để tranh thủ ý kiến của NSD về vấn đề này, qua đó đánh giá và đưa ra kết luận chung để nâng cao ý thức của NSD; áp dụng các biện pháp công nghệ trong việc đối chiếu, so sánh nhằm phát hiện ra tình trạng đạo văn, sao chép thông tin không dẫn chứng, đồng thời giảm thiểu thời gian, công sức hơn so với giải pháp dò tìm truyền thống. Phần mềm chống đạo văn phải giải quyết được vấn đề vừa đối chiếu được tài liệu nội sinh, tài liệu ở các đơn vị khác, CSDL từ các nhà xuất bản và đặc biệt là internet; xây dựng hộp thư góp ý hoặc thư mục nhỏ trên trang web để thu nhận những ý kiến tố giác gian lận trong nghiên cứu khoa học, đồng thời tiến hành kiểm tra, đối chiếu đối với trường hợp bị tố giác để đảm bảo quyền lợi của người tố giác và người bị tố giác; cần có sự liên thông, hợp tác, chia sẻ nguồn lực thông tin giữa các thư viện, ít nhất trong phạm vi các đơn vị cùng chuyên ngành để mở rộng nguồn tin đối chiếu, kiểm tra đạo văn và hơn hết là giúp NSD nắm được thông tin về tác phẩm để dẫn nguồn; dán thông báo cảnh cáo trên tất cả tài liệu của thư viện, phải đảm bảo rằng NSD trước khi có ý định đạo văn phải hiểu được rằng bất cứ hành vi gian lận nào đều bị xử phạt; cần có chế tài cũng như quy định xử phạt thích đáng, đủ sức răn đe đối với NSD trong trường hợp họ cố tình vi phạm chẳng hạn như: yêu cầu cải chính, sửa đổi hoặc viết lại nội dung cho phù hợp,hủy bỏ kết quả nghiên cứu, thu hồi bằng, nặng hơn có thể xử lý hình sự.

Như vậy, các cơ sở đào tạo và thư viện có thể chia sẻ để hỗ trợ cho công tác chống đạo văn và thư viện hoàn toàn có QTG với tác phẩm là công trình báo cáo về tình trạng đạo văn của tác phẩm. Đồng thời, công tác này cũng đòi hỏi phải có cơ chế công nhận kết quả chống đạo văn của các đơn vị liên kết, giúp tăng cường chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo.

Chia sẻ nguồn tài nguyên thông tin và DVTV điện tử với vấn đề QTG

Chia sẻ nguồn dữ liệu thư mục trực tuyến (Cataloging)

Các thư viện đang từng bước tiến hành tự động hóa bằng cách ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thông tin - thư viện. Do đó, thư viện cần tăng cường học hỏi kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ và mở rộng các nguồn tin từ đơn vị khác bằng cách thức liên kết đến CSDL thư mục của các thư viện và cơ quan thông tin khác nhằm mở rộng khả năng tìm kiếm tài liệu của NSD. Khi liên kết đến CSDL của đơn vị khác, thư viện thường sử dụng hình ảnh liên kết với đường link OPAC của thư viện đó để NSD tự tra cứu thông tin trên cơ sở thực hiện nghiêm túc vấn đề thực thi bảo hộ QTG như: sử dụng đúng hình ảnh, nhãn hiệu, nêu tên thư viện trên trang web, nêu rõ đường link (định danh) khi NSD truy cập.

Chia sẻ nguồn học liệu mở (tài nguyên giáo dục mở)

Để có một nguồn học liệu mở chất lượng đòi hỏi cán bộ bổ sung phải thận trọng trong việc lựa chọn nguồn tin, chất lượng nội dung thông tin để tránh thu thập những thông tin rác, thiếu trung thực và gây nhiễu cho NSD. Mặt khác, khi tiến hành thu thập, tạo lập, chuyên viên thư viện phải tuân thủ nghiêm ngặt vấn đề QTG như trích dẫn nguồn tin, tên tác giả, nhan đề, nhà xuất bản… tuyệt đối đảm bảo tính nguyên gốc và toàn vẹn của tác phẩm khi đưa vào bộ sưu tập. Trước khi tiến hành chia sẻ đối với các đơn vị khác, thư viện cần chú ý một số yêu cầu cụ thể sau để tránh xâm phạm QTG: phải đảm bảo rằng tài liệu đó thuộc quyền sở hữu của cơ quan chủ quản hoặc được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu QTG trước khi đưa vào CSDL học liệu mở; tôn trọng quyền nhân thân của tác giả, nêu rõ tên tác giả, tác phẩm, năm xuất bản… trong CSDL học liệu mở; tuyệt đối đảm bảo sự toàn vẹn của tác phẩm, không cắt xén, sửa chữa, bổ sung thêm, làm sai lệch ý tưởng của tác giả. Nếu tác giả, chủ sở hữu cho phép sử dụng, sao chép, thư viện cần thể hiện trên tài liệu một dòng ghi chú mang ý nghĩa “Tài liệu được tặng bởi… NSD được phép sao chép với điều kiện tôn trọng các quyền nhân thân được pháp luật quy định”. Đối với nguồn tin thu thập trên internet, thư viện cần lựa chọn nguồn tin chính thống, có uy tín, được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu QTG trước khi sao chép, tải về máy. Thư viện cần phải nêu rõ nguồn trích từ internet hoặc nguồn trích thứ cấp mà thư viện thu thập được.

Trong CSDL nguồn học liệu mở, thư viện cần thể hiện đường link, định danh một cách rõ ràng, làm cứ liệu nghiên cứu cho NSD. Cần quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của NSD trong đó bao gồm các hành vi không được phép trên trang chủ và đồng ý với các điều khoản mà thư viện quy định trước khi sử dụng. Áp dụng các giải pháp công nghệ mã nguồn mở để hạn chế kinh phí, tiến hành vận động NSD đóng góp tác phẩm của mình vào CSDL học liệu mở để làm giàu thêm nguồn tài liệu này, nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Tạo điều kiện thuận lợi để chuyên viên thư viện được tham gia các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng xây dựng và phát triển học liệu mở. Phối hợp xây dựng, chia sẻ, trao đổi nguồn học liệu mở với thư viện các trường đại học lớn có cùng chuyên ngành đào tạo.

Chia sẻ bộ sưu tập số nguồn tài liệu nội sinh

Tài liệu nội sinh được thư viện tiếp nhận theo hình thức nhận lưu chiểu, sau đó tiến hành lưu trữ, chuyển đổi dữ liệu thành dạng số (pdf, tif…) để phục vụ NSD. Việc chia sẻ, trao đổi dữ liệu giữa các thư viện cần có những quy định riêng để tránh xâm phạm QTG và một số các thỏa thuận khác nhằm đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin cho các bên. Trong đó, cơ sở đào tạo cần có các quy định, nội quy cho phép nguồn tài liệu nội sinh có thể được sao chép, số hóa và được sử dụng nhằm mục đích chia sẻ, phục vụ nhu cầu nghiên cứu, đào tạo; bao gồm có thu hoặc không thu phí (để duy trì cơ sở hạ tầng chứ không nhằm mục tiêu kinh doanh, thương mại). Tùy vào tình hình thực tế, các thư viện phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định pháp luật QTG về mức độ chia sẻ, khả năng sao chép, bảo mật thông tin, tài liệu chia sẻ chỉ được phép đọc toàn văn, không được phép tải về, có thể truy cập mọi lúc, mọi nơi trên các thiết bị công nghệ như laptop, điện thoại thông minh… khi được kết nối internet.

Chia sẻ CSDL trực tuyến (mua và dùng chung)

Đối với CSDL trực tuyến, thư viện cần quan tâm hướng dẫn NSD dùng CSDL sao cho hiệu quả và khuyến cáo NSD về việc sẽ chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm QTG nếu họ vi phạm chính sách sử dụng mà thư viện đã ký với bên cung ứng dịch vụ (phục vụ cho mục đích thương mại, tải về và phân phối, truyền tải nội dung lên mạng internet, tải về một cách hệ thống…).

Khi tiến hành mua e-book, CSDL từ các nhà xuất bản, thư viện cần đưa ra những cam kết thực thi bảo hộ QTG đối với nhà xuất bản thông qua hợp đồng sử dụng tác phẩm, đối với thư viện liên kết cần thông qua văn bản hợp tác, biên bản ghi nhớ… Trong tất cả hình thức trên, thư viện cần phải thỏa thuận rõ ràng với đối tác về các điều khoản như: phương thức khai thác, phạm vi, thời gian, thù lao, nhuận bút, phương thức thanh toán, mục đích sử dụng… và quan trọng hơn hết là điều khoản về QTG giữa cơ sở đào tạo với thư viện liên kết và bên cung cấp dịch vụ.

Chia sẻ dịch vụ số hóa tài liệu

Số hóa trong hoạt động thư viện giúp chuyển tài liệu in truyền thống như sách, báo, tài liệu xám… sang dữ liệu số dưới nhiều định dạng để phục vụ cho mục đích lưu trữ và phổ biến thông tin tới NSD. Thư viện được phép sao chép tác phẩm để lưu trữ với mục đích nghiên cứu, không quá 1 bản; thư viện không được phép sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng kể cả bản sao kỹ thuật số (4). Để thực thi bảo hộ QTG trong việc số hóa tài liệu, khi tiến hành chia sẻ thư viện cần lưu ý (5): ưu tiên số hóa đối với tài liệu đã được cho phép của tác giả, chủ sở hữu QTG, tài liệu không thuộc đối tượng bảo hộ QTG hoặc tài liệu đã hết thời hạn bảo hộ, tài liệu thuộc miền công cộng; được phép sao chép một bản sao để lưu trữ trong thư viện nhằm mục đích nghiên cứu hoặc tài liệu bị hư hỏng, tài liệu quý hiếm, tài liệu không bán trên thị trường. Thư viện có thể sao chép không quá 1 bản dưới cả hai hình thức truyền thống và kỹ thuật số với mục đích lưu trữ phục vụ cho việc nghiên cứu. Do đó, trong trường hợp không vi phạm QTG hoặc phát sinh theo thỏa thuận hợp tác giữa các cơ sở đào tạo, thư viện có thể chia sẻ dịch vụ số hóa tài liệu để tiết kiệm thời gian, chi phí cho hoạt động này. Đối với tài liệu chưa giải quyết được vấn đề QTG, thư viện không thực hiện việc số hóa, trừ trường hợp tác phẩm bị hư hại, tác phẩm quý hiếm cần số hóa để lưu trữ bảo quản. Để số hóa tác phẩm có bản quyền, thư viện tiến hành xin phép trực tiếp tác giả, chủ sở hữu QTG. Mặt khác, trong trường hợp không thể liên hệ với tác giả, chủ sở hữu QTG, ngoài việc xem xét các ngoại lệ, thư viện nên nhờ các tổ chức tập thể QTG (Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam) để dễ dàng hơn cho việc xin phép và trả phí bản quyền.

Kết luận

Việc tuân thủ các quy định về QTG vừa là một yêu cầu bắt buộc mang tính thách thức, vừa là một hành lang pháp lý để các chủ thể trong tiến trình khai thác các tác phẩm dù là truyền thống hay phi truyền thống có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong hoạt động chia sẻ tài nguyên thông tin và DVTV, các bên cần phải hợp tác chặt chẽ trên cơ sở tuân thủ các quy định về QTG và quyền liên quan nhằm tăng cường chất lượng phục vụ, dịch vụ cho NSD. Trong đó, quan trọng nhất vẫn là ý thức của các chủ thể tham gia vào hoạt động này, đó chính là chuyên viên thư viện và sự sẵn sàng tham gia của từng thư viện/cơ quan thông tin (6). Chia sẻ tài nguyên thông tin và DVTV cần có sự hỗ trợ từ công nghệ, tuy nhiên để thành công thì yếu tố con người lại đóng vai trò quyết định. Hỗ trợ NSD truy cập tới tài nguyên thông tin và DVTV thông qua hệ thống mục lục trực tuyến, CSDL thư mục, CSDL toàn văn. Triển khai và duy trì cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin như hệ thống mạng máy tính, phần mềm, phần cứng để đảm bảo người dùng truy cập chính xác, nhanh chóng đến tất cả nguồn tài nguyên thông tin và DVTV liên kết. Sự sẵn sàng tham gia của thư viện được thể hiện thông qua sự ủng hộ của lãnh đạo và chuyên viên thư viện đối với hoạt động chia sẻ tài nguyên thông tin và DVTV, mặt khác đó chính là sự sẵn sàng về chính sách, nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên và cuối cùng là cơ sở hạ tầng của thư viện trong hoạt động này.

Chia sẻ tài nguyên thông tin và DVTV mang đến nhiều lợi ích cho các thư viện liên kết, đòi hỏi phải có một số nhân tố (thư viện tiên phong) sẵn sàng chia sẻ nguồn lực của đơn vị mình, thúc đẩy và tạo động lực cho thư viện khác cùng tham gia hợp tác. Việc thành công hay không trong quá trình hợp tác, chia sẻ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố và một trong những yếu tố cốt lõi nhất trong thời đại 4.0 chính là vấn đề QTG, giải quyết được vấn đề này thư viện sẽ nâng tầm vị thế và hơn hết đó là nền tảng cho việc hợp tác, chia sẻ tài nguyên thông tin và DVTV trong thư viện/ cơ quan thông tin thành công trong tương lai.

______________

1. Nghị định 22/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi về quyền tác giả quyền liên quan do Chính phủ ban hành ngày 23-2-2018.

2, 3. Ngô Nguyễn Cảnh, Thực thi bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động thông tin - thư viện tại Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP.HCM, tr.107, 123.

4. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2009, tr.223.

5. Ngô Nguyễn Cảnh, Quyền tác giả trong hoạt động sao chép và số hóa tài liệu tại thư viện các trường đại học, Tạp chí Thư viện Việt Nam, 2017, số 2, tr.7-14.

6. Đỗ Văn Hùng, Hợp tác chia sẻ tài nguyên thông tin giữa các thư viện đại học trong kỷ nguyên số, Sách chuyên khảo Xây dựng và phát triển thư viện số Việt Nam: Quá khứ - Hiện tại - Tương lai, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017, tr.194-219.

Tác giả: Ngô Nguyễn Cảnh - Ngô Kim Hoàng Nguyên

Nguồn: Tạp chí VHNT số 440, tháng 10-2020

;